Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng

Chương 129:




Dã tâm là thế nào
Từ Quảng Thiên Môn ra, toán người Thích Vân Kha không muốn ở trong thành thêm giây lát nào nữa, ven đường kêu bọn Lý Văn Huấn trong khách đi3m, cả đám đi thẳng vội ra khỏi thành, hạ lều da trâu ngoài thành tạm nghỉ ngơi.
Thái Chiêu lúc này mới phát hiện Lý Văn Huấn không phải đi một mình, còn dẫn theo mấy chục đệ tử Tông môn thân thủ bao gồm Trang Thuật, còn có mấy võ tăng Trường Xuân Tự, ai nấy võ trang đầy đủ nom đầy cảnh giác, rõ ràng là để phòng khi cần giúp đỡ, nhận lệnh phòng vệ ở lớp bên ngoài.
Giờ này ở ngoại ô trời đã sáng bửng, nhưng mấy ngày liên tục Quảng Thiên Môn phong thanh hạc lệ*, ở vùng đồng nội ngoại thành cũng không có người đi lại.
(*) sợ bóng sợ gió. thời Tiên Tần, quân Phù Kiên ở phương Bắc bị quân Tấn đánh bại, trên đường tháo chạy nghe tiếng hạc kêu, lại ngỡ là quân Tấn truy đuổi
Đám người ngồi vào chỗ mình trong lều, đầu tiên Thích Vân Kha hỏi thăm chuyện ba người Thái Chiêu đã trải qua mấy hôm nay, Thái Chiêu không dám quá giấu giếm, ngoại trừ những chi tiết liên quan đến Tử Vi Tâm Kinh, còn lại đều kể thật thà ngọn ngành.
Nghe đến đoạn trận pháp Huyết Chiểu, ngón tay Chu Trí Trăn hơi phát run, đầu óc mông lung: “… Năm đó, bỗng nhiên nàng hứng thú đến tìm ta, bảo những tổ tiên gọi là ‘Ma nữ’ Lạc Anh Cốc biết đâu có ẩn tình khác — thì ra là thế.”
Thiếu nữ còn nói, chuyện người xưa lưu truyền chưa hẳn đều là thật, có thể thấy chính tà trên thế gian cũng chưa chắc đều phân rõ trắng đen, nhưng Chu Thiếu Trang chủ trẻ tuổi cũng không để lọt tai, chỉ theo thói quen cười dịu dàng một tiếng, đổi lại chỉ căn dặn thiếu nữ bớt gây chuyện vân vân.
Rất nhiều người, rất nhiều chuyện, đến lúc nghĩ rõ ràng, buồn vô cớ cũng đã vô dụng, thậm chí còn khiến ông mơ hồ sinh hận.
Cùng nghe kể, Thích Vân Kha hừ lạnh: “Hừ, tên yêu nghiệt họ Mộ chẳng phải tốt lành gì, nhất định bọn hắn đã biết Huyết Chiểu có gốc gác gì Lạc Anh Cốc, mới đặc biệt đặc biệt đưa người nhà họ Thái vào! Bình Thù quá trung thực nên mới bị lừa vòng vòng!”
Hai chưởng môn một đau buồn một phẫn hận, chỉ còn Lý Văn Huấn xem như vẫn còn tỉnh táo, hỏi một câu mấu chốt: “Tại sao hai mươi năm trước Mộ Chính Dương muốn lấy cây Dạ Lan mẹ? Sau này vì sao Thái nữ hiệp lại căn dặn di dân Huyết Chiểu hủy nó đi?”
Thái Chiêu tỏ vẻ chuyện này còn chưa biết, ánh mắt yên tĩnh, không mảy may sơ hở.
Tống Úc Chi liếc nhìn cô, im lặng.
Phàn Hưng Gia thì không biết gì thật: “Chúng con cũng không biết vì sao người Ma giáo cứ nhất định phải chạy vào Huyết Chiểu, lúc ấy người Tứ Kỳ Môn còn đuỏi theo ngoài khu rừng, chúng con cũng không dám ra ngoài.”
Thích Vân Kha hậm hực tiếp tục công kích người ta: “Chắc chắn gã họ Mộ có tính toán ác độc khác, chỉ là không chịu cho mấy đứa biết thôi!”
Thái Chiêu đầy chân thành nói: “Sư phụ ngài nói đúng lắm, người trong Ma giáo giảo hoạt nhất, một câu cũng không thể tin bọn họ. Đúng rồi, ngài và bác Chu, còn có Lý sư bá, sao lại thẳng tiến Quảng Thiên Môn thế ạ?”
Tống Úc Chi không kìm được lại nghiêng mắt nhìn cô.
Thích Vân Kha nói: “Ầy, thật ra ban đầu ta và bác Chu của con đã mời Pháp Không Đại sư ra mặt, vào cái đêm Quảng Thiên Môn náo loạn một cục, cả ba người chúng ta đã cách nơi này không xa. Ôi, chỉ chậm có hai ngày.”
Thái Chiêu nhíu đôi mi thanh tú: “Họ Dương và Tống Tú Chi có mưu đồ từ trước, nội ứng ngoại tặc, tính toán khắp nơi, sư phụ các người có sớm hai ngày hay trễ hai ngày, bọn hắn đều sẽ phát động biến loạn.”
“Nói không sai.” Lý Văn Huấn rất đồng ý.
Ông ta chỉ rời Thanh Khuyết Tông sau ba người Tống Thái Phàn hai ngày, “Ngay hôm sau khi mấy đứa Úc Chi lên đường, ta thu được thư báo khẩn cấp, rằng Tứ Kỳ Môn bỗng dốc toàn bộ lực lượng, binh giới đầy túi, đêm khuya đi đường thẳng tiến Quảng Thiên Môn.”
Các phái Bắc Thần đều có giới luật, trừ phi rơi vào tình huống cực kỳ hiểm ác cùng chung tay chống lại kẻ địch, nếu không dẫn một số lượng lớn người đi vào địa bàn phái khác chiếm giữ là cực kì không ổn. Lý Văn Huấn nghĩ bọn Thích Vân Kha đang sắp tới Quảng Thiên Môn, lo lắng sinh hoạ bất ngờ, thế là lập tức dẫn người chạy đến.
Phàn Hưng Gia mở to mắt nhìn: “Đúng đúng, mấy người đuổi giết bọn con đều từ đường xa phóng tới!”
Lý Văn Huấn nói: “Ta vốn định dùng bồ câu truyền thư, nhưng trước đó ta đã biết Chưởng môn và Chu trang chủ đã rời Bội Quỳnh Sơn trang, tính toán thời gian thì họ không đang trên đường đến Trường Xuân Tự thì là vừa mới ra khỏi Trường Xuân Tự. Ta chỉ sợ nửa đường hoang vắng, lỡ tiết lộ tin tức bồ câu đưa thư, lại nghĩ lỡ rầm rầm đánh nhau mà chưởng môn không ai giúp đỡ, nên dứt khoát dẫn bọn Trang Thuật ra ngoài.”
Thái Chiêu ban đầu ngồi nghe gật đầu lia lịa, nghe tới câu cuối cùng của Lý Văn Huấn, chợt thấy có gì đó xẹt qua trong lòng.
Pháp Không Đại sư nói: “Lão nạp cũng không biết nguyên do bên trong Huyết Chiểu, nhưng Thái nữ hiệp đã dặn dò thì nhất định có lý của cô ấy, huỷ cái cây Dạ Lan mẹ kia cũng tốt. Điều quan trọng hiện giờ vẫn là nên xử lý phân tranh trước mắt thế nào. Việc này lão nạp không tiện chuyên quyền, xin Thích Tông chủ và Chu trang chủ ra chủ trương mới phải.”
Chu Trí Trăn nhíu mày, “Chuyện nhà Hoàng Lão anh hùng cùng rất nhiều thôn dân vô cớ bị giết hại ầm ĩ lộn xộn thiên hạ đều biết cả rồi. Bắc Thần lấy hiệp nghĩa lập danh, xử lý là nhất định phải xử lý, nhưng mà…”
Thích Vân Kha có chỗ do dự, tiếp lời: “Nhưng việc này khó xử ở chỗ, nếu truy cứu tới cùng thì Bắc Thần dễ tổn thương nguyên khí, mà Ma giáo hiện giờ…”
Pháp Không Đại sư than nhẹ: “Lão nạp hiểu lo lắng của hai vị chưởng môn, nghe nói từ khi Ma giáo quét sạch loạn Nhiếp Lữ, giáo quy nghiêm minh, pháp giới sáng sủa, có thể thấy họ đang trên đà hưng thịnh trở lại, lần này…”
Ba người đều nói lấp lửng, lời như mây mù bao phủ, chỉ lộ một nửa.
Vẫn là Lý Văn Huấn nói toạc: “Vậy trước tiên xử lý Tứ Kỳ Môn, ngữ hai mặt như Dương Hạc Ảnh này, Ma giáo có đột kích cũng chưa chắc chịu ra bao nhiêu sức lực! Nội loạn Quảng Thiên Môn cứ thong thả đã, chờ Tống chưởng môn tỉnh lại nghe xem ông ta nói thế nào.”
Mọi người dời mắt sang nhìn Tống Úc Chi, Tống Úc Chi như bị dầu sôi đảo trong lòng, vừa xấu hổ vừa phẫn hận, lập tức khiêm tốn nói: “Là đệ tử học nghệ không tinh, không thể chủ trì công đạo cho cha anh, xin các vị trưởng bối lấy đại cục làm trọng. Nội loạn Quảng Thiên Môn sẽ tự do con cháu Tống gia kết thúc.”
Lý Văn Huấn lạnh lùng nói: “Cậu hiểu thì tốt rồi.”
Thích Vân Kha đau lòng âu yếm vỗ vai đệ tử: “Đừng nản chí mất tinh thần, từ nhỏ đến lớn sư phụ bị ăn mắng là ‘phế vật’ mười mấy năm, một khi đả thông cửa ải mạch Thiên Hỏa Long lại đột nhiên vọt mạnh chỉ trong chốc lát. Người trẻ tuổi gặp chút cản trở không phải là xấu.”
Quảng Thiên Môn khác Tứ Kỳ Môn, chẳng những binh cường mã tráng, thế lực khổng lồ, mà hiện giờ đa số thế lực trong môn phái đều bằng lòng ủng hộ Tống Tú Chi, cộng thêm Tống Tú Chi trốn tội không còn sót tí gì, dưới tình hình ấy Thanh Khuyết Tông và Bội Quỳnh Sơn trang muốn mạnh mẽ can thiệp chuyện trong nhà Tống thị là phạm vào đại huý Bắc Thần cấm tiệt nội chiến.
Đơn giản mà nói, muốn Quảng Thiên Môn nội loạn, chỉ có thể dựa vào chính họ Tống.
Sau khi bàn xong đại sự, đám người rời đi mỗi các hướng như dự định.
Vì đã quyết định trừng trị Dương Hạc Ảnh, Thích Vân Kha Chu Trí Trăn đi núi Thất Mộc điều tra nghe ngóng chứng cứ, phải khiến cho trên dưới Tứ Kỳ Môn và thiên hạ quần hào tâm phục khẩu phục, Pháp Không Đại sư tỏ vẻ tình nguyện đi cùng, Lý Văn Huấn thì dẫn chúng đệ tử đi đến Bội Quỳnh Sơn trang gần núi Thất Mộc chuẩn bị chỗ sơ trước.
Tống Úc Chi nóng lòng muốn gặp cha, Thái Chiêu lo lắng cho song thân, dĩ nhiên muốn đi Lạc Anh Cốc (thật ra hai người họ còn muốn tìm Tử Ngọc Kim Quỳ).
Thích Vân Kha còn tri kỷ tặng thêm một Phàn Hưng Gia, “Để chẩn trị Tống Chưởng môn thật tốt, nếu có chỗ không hiểu hãy dùng bồ câu đưa tin cho Lôi Sư bá con. Ôi, Tống đại ca mau bình phục đi thôi.”
Phàn Hưng Gia tựa như bị nhét thuốc đắng, xong xuôi vốn muốn tìm Đinh Trác kể khổ, thì Trang Thuật bảo hắn người ở quê Đinh Trác đến báo tin, bảo nhà họ Đinh có người già lâm chung, muốn gặp đứa cháu Đinh Trác này một lần cuối, do đó ngay lúc này Đinh Trác không phải hầu trước giường bệnh thì cũng vội về chịu tang.
Thái Chiêu cười ha ha, đưa Phàn Hưng Gia thân mềm thịt báu về lều nhỏ nghỉ ngơi, quay người đi chưa đến mấy bước thì thấy Pháp Không Đại sư một mình đứng dưới một gốc cây khô già. Thái Chiêu nhìn khí sắc lão hòa thượng không tốt lắm, mơ hồ toát một vẻ yếu đi rõ, cô bước lên ân cần thăm hỏi.
Pháp Không Đại sư cười lắc đầu, “Tiểu thí chủ đoán xem năm nay lão nạp đã bao nhiêu tuổi?”
Thái Chiêu từ sáu mươi ba đoán tới bảy mươi tám, lão hòa thượng chỉ lắc đầu.
“Tiểu thí chủ đem số tuổi song thân và cô mẫu cộng lại, không kém là bao.” Lão hòa thượng cẩn thận ngắm nghía Thái Chiêu, “Năm ấy lần đầu lão nạp gặp lệnh cô mẫu Thái nữ hiệp, cô ấy cũng mới lớn cỡ tiểu thí chủ.”
Thái Chiêu cúi đầu, giọng trầm buồn: “Nếu cô cô có thể sống lâu hơn chút thì tốt rồi.”
Pháp Không Đại sư lắc đầu, “Lão nạp cũng sống đủ lâu, sư huynh sư đệ đều đã viên tịch, chúng đệ tử đều khuyên lão nạp ở trong chùa tĩnh dưỡng… Tĩnh dưỡng gì chứ, là lặng lẽ chờ viên tịch sao? Đều là người xuất gia, tứ đại giai không, chết trên bồ đoàn trong chùa hay chết trong rừng núi hoang vắng, khác biệt rất lớn đó.”
Thái Chiêu cười nhẹ nhàng, cô nhớ cậu mình Giác Tính Thiền sư từng kể, lúc trẻ Pháp Không Đại sư cũng là một hòa thượng lôi thôi bay nhảy không câu nệ tiểu tiết.
“Nhiều anh hùng hào kiệt, dù kinh tài tuyệt diễm, hay khí thôn sơn hà, đều từng người héo tàn thoái ẩn, kẻ vô dụng bực này như lão nạp vẫn còn sống tạm thế gian.” Pháp Không Đại sư thở dài, “Bây giờ chuyện mà lão nạp cực kì hối hận, không gì vượt qua là năm đó không phát hiện được rằng Thái nữ hiệp có ý định một mình tru sát Nhiếp Hằng Thành.”
Thái Chiêu không hó hé.
“Lão nạp nói thẳng một câu, lúc ấy lão nạp hèn nhát, nanh vuốt Nhiếp Hằng Thành rộng khắp thiên hạ, hoành hành không sợ ai, lão nạp chỉ muốn một mực che chở cho một đám đồ tử đồ tôn ở Thường Xuâ Tự, co đầu rút cổ trong chùa, mà quên gánh vác chém giết yêu ma che chở thiên hạ.”
Thái Chiêu nhẹ giễu: “Đứng đầu sáu tông người đông thế mạnh Doãn Lão Tông chủ còn quên gánh vác, chỉ làm rùa đen rút đầu, huống chi một Trường Xuân Tự thế nhỏ lực mỏng.”
Pháp Không Đại sư than thở hồi lâu, chợt nói: “Kỳ thật năm đó ngủ ngoài hoang dã trên đường lão nạp từng vô tình gặp được thí chủ Mộ Chính Dương kia.”
Thái Chiêu khẽ giật mình.
Pháp Không Đại sư nói: “Lúc bấy giờ, Thái nữ hiệp không biết đánh đấm ở đâu một trận, bị thương không nhẹ, thần thái cũng rất tốt. Một người trẻ tuổi vóc dáng cao lớn đứng cạnh cô ấy, bên cổ còn có một lạc ấn màu đỏ như máu. Thí chủ ấy tự xưng họ Dương, máu me đầy mặt cũng không chịu lau đi, lão nạp biết cậu ta là không muốn lộ khuôn mặt thật gặp người, bèn gửi thuốc trị thương của Trường Xuân Tự xong, bèn rời đi.”
Lão hòa thượng xoay đầu lại, mỉm cười nhìn cô bé chăm chú, “Tuy nói vị Mộ thí chủ ấy không phải người tốt, nhưng theo lão nạp thấy, tình ý cậu ấy đối với lệnh cô mẫu chưa hẳn tất cả đều là giả.”
Thái Chiêu đầy cảnh giác: “Chỉ vội gặp mặt một lần, đến mặt người ta còn không nhìn rõ, đại sư đã biết nhiều vậy sao?”
Pháp Không Đại sư thở dài: “Tuy chỉ vội vàng gặp mặt, nhưng ý che chở yêu thương của vị Mộ thí chủ ấy đối với lệnh cô mẫu có mù lòa cũng nhìn ra.” — đã qua nhiều năm, giờ ông vẫn còn nhớ rõ cặp mắt kia hung ác như dã thú, lạnh băng đầy đề phòng, lại đẹp rực rỡ kinh người; chỉ có lúc nhìn về Thái Bình Thù mới có tí hơi ấm.
“Là người xuất gia, đại sư cũng hiểu nhiều quá.” Thái Chiêu không kìm được xiên xỏ.
Pháp Không Đại sư chắp hai tay: “Đâu còn cách nào, nam nam nữ nữ thế gian này, phàm là tự thấy chịu tổn thương vì tình là muốn xuất gia. Năm đó lệnh đường cũng thế, cuối cùng cửa Phật không vào thành, mà còn gây cho Huyền Không Am gà bay chó chạy. Chúng ta làm trụ trì, tự nhiên phải hiểu hơn chút, không thì quyến lữ người ta đến quắc mắt trừng trừng đánh tới, xui xẻo vẫn là chỗ cửa Phật thanh tĩnh của chúng ta thôi.”
Thái Chiêu thổi phù một tiếng: “Đại sư nhất định phải trường thọ nha, trên đời này hòa thượng thú vị không nhiều lắm.”
Pháp Không Đại sư mỉm cười, “Nói nãy giờ rất nhiều rồi, lão nạp muốn nói… Tiểu Thái thí chủ, lần này cô về Lạc Anh Cốc, nhìn quanh thật kỹ một chút đi, cố gắng sẽ có cảm ngộ khác biệt.”
Thái Chiêu không hiểu: “Ý đại sư là.”
Pháp Không Đại sư nhẹ than: “Quyến luyến cố thổ, vẫn là thứ đời người không bỏ xuống được, có khi khó mà xa rời. Thái nữ hiệp đã qua đời bốn năm năm, Tiểu Thái thí chủ, tương lai cô còn rất dài, chớ bị tâm ma vây khốn lòng mình.”
Thái Chiêu bật cười: “Đại sư suy nghĩ nhiều rồi, người quen biết đều biết con thích nhất là an niên tuế nguyệt, rượu phải là rượu ngon, ăn phải là mỹ thực, kịch nam phải hát thật đặc sắc, sống phải sống dễ chịu, tâm ma con đâu ra.”
Pháp Không Đại sư không nhiều lời giải thích, chỉ lắc đầu, “Thúc Tổ phụ của Thái thí chủ, Thái Trường Phong đại hiệp quá cố, từng in dấu chân rộng khắp thiên hạ. Ông ấy thường ưa nói câu, chân trời ở đâu không có tri kỷ, trong lòng thấy bình yên thì ở đó chính là cố hương — hôm nay lão nạp tặng câu này cho tiểu thí chủ vậy.”
Mãi đến chừng Phàn Hưng Gia tìm đến Thái Chiêu ăn cơm trưa, cô vẫn còn kinh ngạc một mình đứng đó.
Sau khi đám người dùng xong bữa trưa, Thích Vân Kha dặn dò ba đệ tử Tống Phàn Thái vài câu rồi leo lên yên ngựa, chia nhau rời đi, vó ngựa vù vù đạp bay bụi đất từng đợt trên đường nhỏ hoang vắng.
Trên đỉnh núi cao cao cách đó không xa, tấm trường bào chàng trai trẻ cao gầy tuỳ ý bay múa trong cuồng phong, như bóng yêu ma to lớn đong đưa, hắn lẳng lặng đứng, đưa mắt nhìn hai tuyến người dưới núi chia hai hướng khác nhau rời đi.
Du Quan Nguyệt nhìn xa xa một lát, khẽ nói: “Giáo chủ, xem phương hướng họ rời đi, đúng là Chiêu Chiêu cô nương định về Lạc Anh Cốc.”
Ánh mắt Mộ Thanh Yến tĩnh mịch, không lộ vui giận.
Thượng Quan Hạo Nam từ phía sau vội vã chạy đến, ôm quyền nói: “Giáo chủ, Nghiêm Trưởng lão đến, chẳng những lão mang đến rất nhiều hồ sơ, còn nói phát hiện chuyện gấp, ngài xem bây giờ phải chăng là…”
“Không vội.” Ánh mắt Mộ Thanh Yến yên tĩnh, giọng lạnh nhạt xa cách, “Có lẽ ta đã đoán được Nghiêm Trưởng lão phát hiện cái gì, giờ chúng ta đi gặp Tống Đại công tử trước đã.”
“Bây giờ?” Du Quan Nguyệt sững sờ, “Giữa ban ngày ban mặt?”
Thượng Quan Hạo Nam ngạc nhiên nói: “Giữa ban ngày ban mặt thì thế nào?”
Du Quan Nguyệt lúng túng: “Không phải đêm qua Chiêu Chiêu cô nương nói, giữa ban ngày ban mặt lên Quảng Thiên Môn không dễ chạy thoát sao.”
Khoé miệng Mộ Thanh Yến mang ý cười, “… Không có tiền đồ.”
Quảng Thiên Môn, Thánh Đường.
Mái vòm đen đặc hình tròn rộng lớn, mặt đất lát ngọc đen vuông vức, ngụ ý trời tròn đất vuông.
Ánh nến lấm tấm trên tế đài cao cao, tựa như người đang lạc vào dải ngân hà dài dằng dặc, ngửa đầu nhìn lại là bài vị tầng tầng lớp lớp, phu thê Chưởng môn Quảng Thiên Môn suốt hai trăm năm, còn có trưởng bối giang hồ được hưởng danh dự các đời.
Tống Tú Chi tham lam nhìn tất thảy —
Lúc Doãn Thanh Liên còn sống, hắn không được cho phép bước vào nơi đây; sau khi Doãn Thanh Liên chết rồi, hắn cũng chỉ có thể đứng ở điện phụ vào lúc tế tự, còn Tống Mậu Chi và Tống Úc Chi thì có thể chia nhau đứng hai bên cha Tống Thời Tuấn, đường hoàng đứng chính giữa nơi được chú ý nhất.
“Ha ha ha ha…” Hắn nhìn bài vị Doãn Thanh Liên chòng chọc, một trận cười nhẹ gần như điên cuồng phát ra từ cổ họng, “Tống Mậu Chi thịnh vượng vang danh, Tống Úc Chi mênh mang xanh thắm*, bao nhiêu là kỳ vọng to lớn, tên đẹp êm tai biết bao, không phải đều thành bại tướng dưới tay ta sao, ha ha ha ha ha…”
(*) Anh thanh mậu thực: chỉ tên đẹp và sự nghiệp thịnh vượng; Úc úc thương thương: xum xuê tươi tốt. Tên trích từ thành ngữ 4 chữ.
“Ấy cũng không sai.” Một giọng đàn ông cười trong trẻo bỗng vang lên.
Trong điện u tĩnh đột ngột xuất hiện kẻ thứ hai, Tống Tú Chi lập tức cảnh giác, nghiêm nghị quát lớn: “Ai? Đi ra cho ta!” Hắn đồng thời đưa tay phải dùng sức kéo một chỗ cơ qua ở góc bàn, lập tức có tiếng còi đồng sắc bén vàng lên ngoài điện.
Mười mấy hộ pháp trấn thủ ngoài điện Thánh Đường phá cửa vào trong giây lát, hoặc giương cung lắp tên, hoặc cầm trường đao sáng như tuyết trong tay.
Sắc mặt Mộ Thanh Yến đầy tự nhiên đứng trong điện, “Tống Đại công tử làm gì hưng sư động chúng vậy, chẳng qua ta chỉ muốn hỏi huynh mấy câu, xin Tống Đại công tử mời chư vị hộ pháp lui ra.”
Tống Tú Chi lạnh lùng nói, “Xưa nay chính tà bất lưỡng lập, Quảng Thiên Môn và Ma giáo không có gì đáng nói!”
“Chính tà bất lưỡng lập?!” Mộ Thanh Yến bật cười, “Ta chưa từng vu oan hãm hại thủ túc, gây ra mạng người, càng chưa từng cấu kết ngoại tặc, mưu hại cha ruột. Giữa hai ta, đến cùng thì trên tay ai dính máu cốt nhục nhà mình chứ. Ngươi có nói câu dễ nghe đi chăng nữa, có tội vẫn trốn tránh sạch sẽ, chẳng qua cũng chỉ là bịt tai đi trộm chuông thôi, còn tưởng người trong thiên hạ không biết ngươi là hạng gì ư!”
Mộ Thanh Yến vốn dĩ miệng mồm sắc bén cay nghiệp, giờ càng không hề kiêng dè, nghĩ sao thấy vậy, chữ chữ tận xương, đao đao thấy máu. Các hộ pháp Thánh Đường vây bốn phía nghe xong, không khỏi xôn xao ghé mắt, trao đổi ánh mắt với đồng lứa bên cạnh.
“Ngươi —!” Xương gò má Tống Tú Chi căng cứng, ánh mắt ác độc, “Yêu nghiệt Ma giáo xảo ngôn thiện biện, hôm nay ta tru sát ngươi, trừ một mối hại lớn cho thiên hạ!”
Theo hắn đưa tay ra hiệu, Thánh Đường hộ pháp bốn phía la lớn, cùng nhau tấn công tới.
Mộ Thanh Yến cười ha hả, liên tục đánh ra song chưởng, tay áo tụ khí như mưa cuồng, như một luồng lực vô hình tuôn đến chúng hộ pháp, rắc rắc rắc rắc vang lên trong điện không ngừng bên tai, chúng hộ pháp khó khăn mới đứng vững trong luồng gió, ngạc nhiên phát hiện binh giới trong tay bị cụt một đoạn, như bị đao cắt đứt — trường kiếm không còn mũi kiếm, cương đao mất mũi đao, cung tên không thấy đầu tên…
Mộ Thanh Yến quay lại phất tay áo, bắt một phát vào hư không, một chiếc đèn thủy tinh đốt cạnh Tống Tú Chi phát nổ, dầu nhuốm tia lửa bỏng rát trên mặt trên áo hắn, — Tống Tú Chi như một pho tượng đất, không dám đến một cử động nhỏ, lòng hoảng hốt.
Mộ Thanh Yến rũ tay áo rộng, thu khí kình, hít thở an nhàn yên ắng, trong chốc lát lại như khôi phục lại thành một vị công tử giới quyền quý nhặt hoa ngắm trăng.
Hắn thản nhiên nói: “Ta mời chư vị hộ pháp lui ra, hoàn toàn là vì tốt cho Tống đại công tử, nếu công tử không muốn, ta cũng có thể ở ngay trước mặt bọn họ hỏi — xin hỏi Tống công tử, người báo cho huynh biết chuyện núi Thất Mộc phải chăng là hắc y nhân che mặt…”
Chưa hỏi xong, Tống Tú Chi đã vội nói: “Chúng hộ pháp lui ra, đóng chặt cửa điện, tất cả rời khỏi Thánh Đường hai mươi bước!”
Mười mấy hộ pháp Thánh Đường đầy vẻ do dự, cuối cùng vẫn nghe theo lời, rời ra ngoài điện.
Quảng Thiên Thánh Đường khổng lồ tĩnh mịch chỉ còn hai người Mộ Tống.
Ánh mắt Tống Tú Chi âm u khó lường, hận thù thấp giọng hỏi: “Ngươi đã biết chuyện gì?!”
Mộ Thanh Yến khoát tay sau lưng, khoan thai dạo bước trong cung, “Mấy tháng trước, ngươi bỗng nhiên biết được Dương Hạc Ảnh luyện chế thi khôi nô trong núi Thất Mộc, thế là tự mình ra ngoài một chuyến. Trên núi, ngươi bắt gặp Dương Hạc Ảnh đang bận rộn, hai người cùng chung chí hướng, đưa ra độc kế ngay tại chỗ.”
“Sau khi trở lại Quảng Thiên Môn, ngươi phái người giả vờ vô tình nhắc tới có một chỗ như núi Thất Mộc ở trước mặt Tống Mậu Chi, Tống Mậu Chi càng ngứa ngáy khó nhịn trong lòng, ngươi càng không ngừng ngăn cản, rốt cuộc Tống Mậu Chi không kìm được bỏ người Quảng Thiên Môn sang một bên, một mình ra ngoài chiêu binh mãi mã. Chờ Tống Mậu Chi giày vò một trận, Dương Hạc Ảnh bèn ra lệnh cho tử sĩ dưới trướng giết sạch đám người Tống Mậu Chi mới mời chào trong vòng một đêm, rồi dùng chiêu thức của Quảng Thiên Môn gi ết chết đám Hoàng Sa Bang bị nhốt đã lâu, đại công cáo thành.”
“Đợi qua mấy ngày, Dương Hạc Ảnh ‘phát hiện’ cả nhà Hoàng Lão anh hùng chết thảm, sau đó la hét chạy lên Quảng Thiên Môn đòi giải thích. Sau đó, ngươi giả vờ bị đâm, đầy bi phẫn xác nhận nhiều hành động đủ loại của Tống Mậu Chi cố gắng trước đó… Hẳn cũng đâu đó nhỉ.”
Mộ Thanh Yến vừa nói vừa chú ý Tống Tú Chi, thấy sắc mặt hắn biến xanh biến đỏ, ánh mắt kinh ngạc lo sợ, hắn biết mình đoán nếu không trúng cũng không xa mấy.
Tống Tú Chi cố trấn định: “… Sao ngươi biết rõ vậy? Là, là Dương Hạc Ảnh khai ra?”
Mộ Thanh Yến thản nhiên nói: “Một đứa con thứ không quyền không thế không được đãi ngộ như ngươi, có thể vạch ra một mê cục lớn vậy, ta vẫn luôn nghi ngờ từ đầu — không phải ngươi không có lòng tính toán, mà là ngươi không đủ tai mắt lực lượng.”
“Ngươi mỉa mai đủ chưa?” Tống Tú Chi lạnh lùng nói, “Chưởng môn Quảng Thiên Môn các đời vốn nạp thê thiếp rộng rãi, sinh nhiều con cái, từ đó chọn ra người đặc biệt ưu việt lập thành chưởng môn kế nhiệm, cũng không chia đích thứ, thế thì vì sao ta không thể tranh đoạt chức chưởng môn này?!”
“Đương nhiên có thể, thậm chí ta còn rất bội phục ngươi.” Mộ Thanh Yến cười khẽ, “Chỉ có điều nếu thật phải dựa theo quy củ Quảng Thiên Môn, ưu việt nhất trong đám con cháu nhà họ Tống thế hệ này hẳn là Tống Úc Chi, cũng không phải là ngươi. Dù hắn bị thương chưa lành, song ngươi vẫn không phải là đối thủ của hắn.”
Tống Tú Chi đỏ mặt: “Võ nghệ cao thấp cũng đâu phải là chuẩn tắc duy nhất để cân nhắc Chưởng môn, Tống Úc Chi từ nhỏ kim tôn ngọc quý, trước mắt không nhiễm bụi. Người như nó, sao có thể thống lĩnh Quảng Thiên Môn cho tốt chứ!”
“Thật chí khí, không tầm thường!” Mộ Thanh Yến không chút nhiệt tình vỗ tay hai lần xem như cổ vũ, “Giờ chúng ta nói chính sự đi — núi Thất Mộc cách Quảng Thiên Môn trăm dặm, ngươi không vô duyên vô cớ biết chuyện xảy ra trong núi. Cho nên, đúng là có người đặc biệt chạy tới báo việc Dương Hạc Ảnh làm cho ngươi.”
“Chuyện ta muốn hỏi chính là đây, người đến báo tin mật, là ai?”
Con ngươi Tống Tú Chi co rút, cảnh tượng đêm đó rõ mồn một trước mắt — hắc y nhân tu vi cao thâm khó lường kia, chậm rãi mà trịnh trọng nói ra những gì Dương Hạc Ảnh đã làm tổn hại ngàn dặm ngút trời ở núi Thất Mộc.
“Không dối gạt Mộ Giáo chủ, Tú Chi thật không biết thân phận của người kia.”
Mộ Thanh Yến lạnh lùng nhìn hắn chằm chằm, như mãnh thú nhìn chòng chọc vào cổ con mồi, không nói không rằng.
Im lặng càng có một sức uy hiếp.
Tống Tú Chi biết tu vi tên đại ma đầu hơn xa mình, cũng không cố kỵ yếu tố thể diện gì, chỉ cần tên này khẽ động tâm niệm là lập tức có thể lấy tính mạng mình.
Hắn bắt đầu đổ mồ hôi lạnh: “Đến mức này rồi, ta cũng không cần giấu mặt giúp gã kia, ta chắc chắn không biết thân phận của hắn. Chỉ biết võ nghệ hắn rất cao, thân pháp quỷ dị, bao lấy cả người cực kỳ chặt chẽ, ta chẳng thể nhìn ra lai lịch võ công của hắn.”
Đối với kết quả không biết lần thứ mấy giống nhau, thật ra Mộ Thanh Yến đã có chuẩn bị, tuy nhiên vẫn không khỏi lại thất vọng một lần nữa.
Hắn hỏi: “Hãm hại Tống Mậu Chi, cướp đoạt chức chưởng môn, chủ ý này là tự ngươi nghĩ ra, hay là tên che mặt mật kia?”
Ánh mắt Tống Mậu Chi loé sắc sáng, nói thẳng: “Là chính ta.”
Mộ Thanh Yến tựa như có phần quái lạ, “Ngươi vừa nghe đến chuyện Thất Mộc thì nhanh chóng nghĩ ra kế hoạch kín đáo trọn vẹn như thế sao?”
— Ánh mắt hắn dường như đang nói: Nếu là thật, ngươi đặc biệt mẹ nó thật đúng là một thiên tài nghĩ ra âm mưu quỷ kế!
Tống Mậu Chi nghe ra ngụ ý, vừa xấu hổ vừa giận, “Phải thì thế nào?! Chỉ cần để tâm, năm này tháng nọ bí mật quan sát, rất nhiều chuyện sẽ không khó phát hiện.”
“Tống Mậu Chi đối với người trên độc đoán chuyên quyền, đối với người dưới ngang ngược càn rỡ, phụ thân lại đầy thiên vị, ba vị tộc lão đã hết sức bất mãn từ lâu, chất chứa tận đáy lòng không muốn trông thấy Tống Mậu Chi kế vị chưởng môn! Dương Hạc Ảnh âm độc ghen ghét, lòng dạ hẹp hòi, cha tự xưng là hào hiệp, chưa từng kiêng dè lời nói cử chỉ cho chu toàn, đắc tội nặng nề với tiểu nhân từ lâu.”
“Nom Quảng Thiên Môn như sắc màu rực rỡ, thực ra ẩn giấu nguy cơ, đáng tiếc cha và Mậu Chi mắt rỗng bụng lớn, không hề phát hiện hay đề phòng! Úc Chi thì kẹt tại Thanh Khuyết Tông không về được, nếu ta không đứng ra làm kẻ ác, thì lẽ nào đợi đến tộc nhân Tống thị triệt để trở mặt, ủ thành nội loạn ư?”
Câu này đã vướng mắc trong lòng Tống Tú Chi đã lâu, mà không thể thổ lộ nửa chữ với ai, làm một Tú Chi công tử ‘khiêm tốn ôn hòa hiền hậu đạm bạc’ nhất trong Quảng Thiên Môn, sao hắn lại có thể không những không nhắc nhở phụ thân huynh đệ mà còn mưu đồ từ sớm chứ?
Giờ đây đối mặt với Ma giáo đối thủ một mất một còn, trái lại hắn có thể phun ra rất nhanh.
Mộ Thanh Yến có phần hiểu: “Nói vậy, với tính nết của Tống Mậu Chi, cho dù ba vị tộc lão có thể chịu đựng thì con em trai tráng bên dưới cũng chưa chắc chịu nhẫn nhịn.”
Hắn lại nói, “Nói vậy, ngươi cấu kết Dương Hạc Ảnh, hãm hại Tống Mậu Chi, xâu chuỗi tộc lão, mưu đoạt chức chưởng môn, tất cả đều là vì nghĩ cho đại cục của Quảng Thiên Môn, hoàn toàn không có chút tư tâm?”
Tống Tú Chi nghẹn lời, một nỗi oán độc xấu hổ dâng lên từ đáy lòng.
Hắn cố nén cơn giận, ôn tồn nói: “Đại danh Mộ Giáo chủ như sấm bên tai, ta đây ở Quảng Thiên Môn cũng đã nghe thấy. Tuy Bắc Thần và quý giáo tranh chấp hai trăm năm, nhưng dù sao thì cũng là giang sơn Mộ gia dựa vào chính mình đoạt lấy, bị chú cháu Nhiếp thị đoạt quyền mấy chục năm quả khiến người cảm thán. Biết Mộ Giáo chủ đoạt lại gia nghiệp, báo thù rửa hận cho cha ông, ai mà không khen một câu thống khoái!”
“Dù rằng ta không dám nói không có chút tư tâm, nhưng nếu không phải Tống Mậu Chi vô năng, phụ thân bất công, còn người mẹ đáng thương của ta nữa…” Tống Tú Chi nói tới đây rơi lệ, “Bà vốn là một hầu gái nhỏ trong Quảng Thiên Môn thế mà kiểu gì Doãn Thanh Liên cũng không tha cho bà! Mẹ vừa sinh ta được vài năm, Doãn Thanh Liên đã nói bà bị bệnh, chuyển ra trang viên ở ngoại ô, không lâu sau bảo bệnh qua đời, sau ta mới biết, mới biết…”
“Doãn Thanh Liên hạ độc bà ấy? Chậm rãi hành hạ cho đến chết?” Mộ Thanh Yến có nhã ý bổ sung.
“Không sai!” Tống Tú Chi giận không kìm được, “Mẹ ta hiền lành yếu đuối, không hề có chủ trương, chủ gia bảo bà đi hầu công tử chả lẽ và dám không theo? Bà làm sai cái gì chứ! Nếu không phải mẹ để lại di ngôn trong gối, ta vẫn còn bị mơ mơ màng màng!”
Mộ Thanh Yến nghe đến đó, bỗng cười to, “Ha ha ha ha, đám gọi là danh môn chính phái các ngươi, làm chuyện gì cũng phải tìm cớ lý lẽ chính trực cho mình! Cái gì mà lấy đại cục làm trọng, cái gì mà vì nợ máu của mẫu thân… Chả lẽ Tống Mậu Chi nhân đức đủ mặt, Quảng Thiên Môn không ai phản đối, mẹ ngươi tự nhiên ốm chết, thì ngươi sẽ có thể ngoan ngoãn phò tá Tống Mậu Chi sao?”
Hắn dừng giễu cợt, tia mắt như đao đầy sương lạnh, “Đừng giả vờ này nọ nữa! Lý do duy nhất mà của âm mưu quỷ kế liên hồi của ngươi, là tự ngươi muốn làm chưởng môn, tự ngươi muốn quyền thế!”
Từ lúc trưởng thành đến giờ, lần đầu Tống Tú Chi bị quát đỏ bừng cả mặt, không cãi nổi.
“Còn nữa, ta chưa từng xem thường Nhiếp Hằng Thành.” Mộ Thanh Yến gằn từng chữ: “Mà ngược lại, ông ta có thể mưu quyền đoạt vị, khiến hơn nửa Giáo chúng tâm phục khẩu phục, đó là uy vọng ông ta núi đao biển máu chém giết mà có, ta vô cùng kính nể!” Vừa nói, hắn vừa ra cửa.
Tống Tú Chi bước lên một bước, do dự nói: “Ngươi hỏi xong rồi? Không còn gì à?”
Mộ Thanh Yến giơ tay áo trái, hư không phất về cửa lớn, quay lại nói: “Chuyện ta muốn biết đã biết, hỏi chuyện khác ngươi cũng không biết được.”
Hắn dừng đoạn, mỉm cười nói: “Đại công tử Tú Chi, ta xin tặng hai câu — vì lý do gì làm chút thủ đoạn này thì không sao, quan trọng là ngươi phải giữ vững quyền thế hiện giờ trong tay, cha ruột trở về cũng không thể cho! Chỉ cần ngươi giữ được, giữ thật kỹ, thật lâu dài, nhiều năm sau ngươi chính là người chi chính chính thống của Quảng Thiên Môn, đến chừng đó ngươi muốn ném bài vị Doãn Thanh Liên vào thùng nước rửa chén cũng không ai lên tiếng!”
Cảm xúc Tống Tú Chi dậy sóng, như bị khơi gợi dã tâm sâu nhất tận đáy lòng. Hắn không kìm được hỏi: “Mộ Giáo chủ, đại quyền trong tay, đúng là tươi đẹp thế sao?” — dù có hại chết cha ruột và anh em, đều đáng giá sao?
Lúc thốt lời, cửa chính Quảng Thiên Thánh Đường đã khẽ mở, loáng thoáng có thể thấy được Thánh Đường hộ pháp cách hai mươi bước đứng thành ba hàng phòng vệ.
Qua khe cửa dần mở, ánh nắng sáng sủa dần chiếu vào căn điện mờ tối, ánh lên phù điêu tinh xảo bằng ngọc đen bóng, thanh niên cao cao đứng khuất bóng, nửa người hòa lẫn trong ánh sáng nửa người chìm trong bóng đêm.
“Đâu chỉ tươi đẹp, mà thật sự là tuyệt không tả xiết.”
Hắn nâng đôi ngươi đen thẳm, nhìn ra nắng trời hơi ngẩn ra, “Chỉ cần có được quyền thế vô biên, ngươi muốn thứ gì được đó, vĩnh viễn sẽ không mất đi nữa, sẽ không bất lực nữa.”
Hết quyển 6 | Đầm Máu lặng thinh
bà Quan: cuối cùng có thể viết đến cuối quyển, mệt chết được!
minh: hồi bà đi học, văn được mấy điểm mà chữ lắm thế, tui eddixx chết luôn rồi không còn biết mệt là gì nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.