Trân Châu Cảng

Chương 9:




Trân Châu cảng là một hòn ngọc, còn vương giả hơn thứ ngọc trai mà nó mang tên.
Nó là một viên ngọc quý của vùng biển thanh bình. Trân Châu cảng nằm trên một hòn đảo thuộc quần đảo Oahu. Ngay giữa một quần thể thực vật tươi tốt xum xuê và sực nức hương hoa mọc trên vùng nham thạch cụm núi lửa trong vùng quần đảo Hawaii. Thái Bình Dương bao phủ cả một nửa quả địa cầu và Hawaii nằm ở giữa Thái Bình Dương, cách xa đất liền hơn bất cứ nơi nào trên Trái Đất. Đối với những người hằng phải vượt hàng ngàn hải lý và lênh đênh trên các đại dương thì đảo Trân Châu này là một thiên đường luôn chào đón họ. Hầu như ai đi qua vùng biển này cũng phải dừng chân ở đây một lần.
Đảo có độ cao thấp so với mặt biển, bờ cát dài. Cảng không những là nơi neo thuyền của các tàu bè mà còn là một vị trí quân sự tuyệt vời. Từ vị trí này thì ta có thể chế ngự khắp bờ biển xung quanh. Vào giữa năm 1941, có tới 6 tàu chiến hàng không mẫu hạm, tàu chiến lớn, tàu khui trục, tàu ngầm và tất cả các con tàu khác có mặt ở đó đều là những tinh hoa của hạm đội Pacific của Mỹ. Lúc này đang vây quanh đảo Ford.
Evelyn nhìn những con tàu ấy hướng ra mọi phía, khi nàng cùng bạn bè ngồi trên những chiếc xe Jeep của quân đội đi qua cổng chính của căn cứ hải quân trên đảo Ford. Lần đầu tiên nàng nhìn thấy mật độ tàu chiến dày đặc trong một bán kính nhỏ như thế. Lúc đầu, nàng bị lạc đường đến hỏi người gác cổng chỉ cho mình cổng chính là ở đâu, nhưng trước khi kịp mở lời thì anh ta đã ngoác miệng ra cười:
- Xin chào!
Người lái xe kí tên làm thủ tục trước ánh mắt ngơ ngác của các y tá. Anh ta bĩu môi nhìn mấy chàng lính thủy đánh bộ đang lảng vảng ở trong cảng rồi cho xe chạy tới. Barbara hỏi:
- Này! Mấy bạn có biết tỷ lệ giữa đàn ông và đàn bà trên đảo này là bao nhiêu không? 4000/1 đấy nhé.
Betty lôi cặp kính râm có khắc hai cây cọ hai bên chiếc gọng nhựa đeo vào mắt. Chiếc kính này nàng mua của một người bán hàng rong trước khi kịp leo lên tàu. Vừa đeo kính nàng vừa reo lên với đám lính thủy đánh bộ đứng phía sau xe.
- Gặp lại sau ngoài bờ biển nhé mấy anh!
Evelyn không chậm trễ như các cô gái khác trong đội. Nàng tìm ngay ra phòng mình, một phòng ngủ nàng sẽ ở chung với Betty và xếp đồ đạc vào trong chiếc ngăn tủ ngay dưới giường. Sau đó nàng đi một mình đi tìm bệnh viện của căn cứ ở đâu. Sắp tới, họ sẽ làm việc ở bệnh viện đó.
Bệnh viện sạch, không một hạt bụi, các phương tiện y tế còn mới nguyên. Trong bệnh viện hàng dãy những phòng còn trống. Drap trải giường trắng tinh, giường nào cũng được đặt ngay ngắn dọc cửa sổ tràn nắng, hai bên tường không khí êm dịu thoang thoảng mùi hương của hoa mận dại mọc đầy trên đảo. Hương thơm ướp đầy lên từng chiếc gối, át cả mùi thuốc khử trùng và mùi thuốc tẩy trắng dùng để cọ rửa những cánh cửa bằng gỗ nặng nề dọc các phòng trong bệnh viện. Evelyn nghĩ: đây là một nơi sạch sẽ nhất nàng từng thấy.
Nàng thấy một hộ lý quân y đang dọn dẹp một phòng nhỏ có chứa các dụng cụ máy móc y tế và hỏi:
- Tại sao bệnh viện này lại trống trơn như vậy?
Anh ta bảo với nàng: những vết thương nặng nhất của người ở đây là trật khớp và bệnh viện từng tiếp nhận tới 5, 6 ca bị cháy nắng do vui chơi ngoài biển quá lâu.
Evelyn bước về khu nhà dành cho y tá. Lúc này, nàng hoàn toàn tin chắc rằng đến Trân Châu cảng tức là nàng đã rời xa chiến tranh tới độ không thể xa hơn được nữa.
Thế nhưng Rafe lại đang lăn mình trong chinh chiến, điều đó khiến nàng cảm thấy nỗi kinh hoàng của chiến tranh đeo bám nàng tựa như trái tim vẫn còn đập trong lồng ngực của nàng vậy.
*
Những đường đạn chiu chíu trên bầu trời vạch thành những đường lửa cháy đỏ phát ra từ một chiếc máy bay chiến đấu của một tên không tặc người Đức xé không khí lao vút bên ngoài buồng lái của Rafe. Anh kéo cần số, mở van tiết lưu cho máy bay lùi lại phía sau khoảng 1 phút rồi sau đó lao thẳng lên phía trước. Anh đã quá quen với chuyện này, và anh cũng thuộc chiếc máy bay này như lòng bàn tay của mình. Anh thích nó lắm. Đối với anh, chiếc Spitfire tựa như một con chó lai hay nổi quạu. Loại máy bay này dễ điều khiển vì chúng bay cũng rất nhanh. Những chiếc Messerchmist và Focke-Wult của Đức thường nặng ký mà mạnh hơn. Còn chiếc Spitfir là chiếc máy bay nhẹ nhàng nhất và do đó nó bay nhanh hơn, khả năng tác chiến cũng nhanh nhẹn hơn. Bấy nhiêu đó cũng đủ để bảo vệ cho một phi công đang ngồi trong buồng lái rồi. Nhưng vì nó đã bay quá nhiều, và đã sửa chữa liên tục nên trở nên rệu rã. Khi Rafe cho chiếc máy bay này vòng lại thì nó rung lên bần bật, nhưng anh không có thời gian để suy nghĩ về điều đó nữa rồi. Nếu chiếc máy bay này rơi lả tả ra thành từng mảnh thì anh sẽ chết, nhưng nếu anh ngần ngừ và nghi ngờ vào khả năng bay của nó và của chính mình thì chiếc Messerschmistt trước mặt kia sẽ tông thẳng vào anh và anh cũng sẽ chết.
Trong khi cho chiếc máy bay vòng lại, anh quyết định tấn công và mai phục những kẻ đang có ý định mai phục anh. Ngón tay anh nhấn cò súng, mắt dõi theo đường đạn bay thẳng đến đuôi của chiếc máy bay Đức.
Rafe không nghe thấy tiếng đạn, cũng không nghe thấy thân máy bay của mình rung lên từng đợt từng đợt. Trong khi chiến đấu, anh chỉ dùng mắt để xét đoán mọi việc. Anh nhìn đường đạn lao vào thân chiếc máy bay Messerchmistt và bắn bể buồng lái của kẻ thù. Anh nhìn thấy máu vụt ra từ thân thể người phi công Đức, người mà chỉ trạc tuổi anh hoặc chỉ hơn chút xíu. Khi anh bay ngang qua đường khói ọc ra từ chiếc máy bay Đức thì thân máy bay này đang quay vòng vòng theo đường xoáy trôn ốc đâm đầu xuống bờ biển Bắc. Rafe nghĩ trong một tích tắc rằng biết đâu người phi công vừa thiệt mạng kia cũng chỉ là một chàng trai nông thôn hệt như anh vậy.
Đêm đó anh viết một lá thư miêu tả chuyện đó chỉ trong một tờ giấy đơn. Sau đó anh mượn một cuốn từ điển để kiểm tra lỗi chính tả trước khi cẩn thận chép nó vào một tờ giấy phẳng phiu khác.
“Evelyn yêu quý! Ở đây lạnh lắm, lạnh tới thấu xương, kết bạn cũng chẳng dễ gì. Hai đêm rồi, anh uống bia với hai phi công thuộc quân đội hoàng gia Anh. Ở đây chỉ có mỗi bia là thứ duy nhất không lạnh lẽo mà thôi. Thế mà em biết không, ngày hôm qua cả hai người bạn ấy đều bị giết cả rồi.”
*
Evelyn đọc bức thư kia trong khi nàng ngồi dưới bóng một cây cọ giáng. Ngồi đây, nàng có thể nhìn thấy bầu trời hoàng hôn đang hồng rực. Một tấm màn màu hồng đang mơ màng phủ xuống bờ biển Thái Bình Dương. Trong thư Rafe còn viết: có một cách anh có thể tìm thấy sự nồng ấm của tình người đó là những lúc anh nghĩ về em.
Mãi sau này nàng mới viết thư trả lời. Ở đây, xe bưu tá chỉ đến vào ngày thứ hai, và nàng cũng cần có thời gian cho cảm xúc của mình lắng xuống đủ để cầm bút viết thư cho anh, để nâng cao tinh thần của anh. Đó là thứ anh muốn nghe lúc này.
Chiều chủ nhật, sau khi tắm táp xong xuôi ở khu nhà dành cho các y tá, nàng hong mái tóc của mình trước làn gió biển ấm áp và mặc chiếc áo đầm bằng vải bông nhẹ. Cả hai cánh tay và chân nàng lúc này đã nâu sẫm lại vì nắng, khiến mái tóc của nàng như vàng rực thêm. Betty và các cô gái khác đều trang điểm, nhưng Evelyn chỉ thoa son thôi. Lúc này, nàng bỏ qua thói quen trang điểm cẩn thận bình thường và hay ra ngoài một mình.
Nàng bước dọc bờ biển, tìm đến một phiến đá nhẵn nhụi và ngồi lên đó, nàng đá giầy ra khỏi chân, đặt tờ giấy viết thư lên đầu gối, nàng viết thư cho anh bằng chiếc bút máy mà cha nàng đã tặng khi nàng mới gia nhập lực lượng hải quân.
*
Đêm đó bọn Đức đến thật gần. Những chiếc Spitfire và Bão Lửa sẵn sàng đón chúng. Quả là một cuộc bão táp thật sự, chỗ nào cũng thấy máy bay chiến đấu. Máy bay ở ngoài những đám mây nhìn rõ đã đành, có những máy bay còn lẫn trong cả những đám mây dày đặc trên không. Với tầm nhìn hạn chế, Rafe nghĩ chỉ va vào nhau thôi cũng đủ chết chứ đừng nói gì chết bởi đạn bắn. Chợt có tiếng la lên của một phi công trong đội:
- Chúng bao vây tôi rồi, giải thoát cho tôi, có ai đó cứu tôi với.
Rafe nhìn ra nền trời giữa những đám mây phía dưới kia, bên tay phải anh, anh nhìn thấy một chiếc Messerchmistt với những khẩu súng đang khạc lửa. Trước mặt nó là chiếc máy bay của Anh Hillrycan đã bốc cháy.
- Để thằng đó cho tôi.
Rafe đáp và hất cần điều khiển sang phía bên tay phải để cho chiếc Spitfire của anh rơi tự do thẳng xuống đầu chiếc Messerchmistt, những viên đạn của Rafe bắn nát buồng lái của chiếc máy bay người Đức và chiếc tàu lượn này bắt đầu rơi theo vòng xoáy trôn ốc lao thẳng xuống đất, rà bám theo lao xuống dưới và nhìn thấy nó chúi đầu xuống biển, ngay lập tức anh cho máy bay của mình lao lên.
Vết thương của viên phi công trẻ lái chiếc Bão Lửa có thể khiến anh ta tử vong bất cứ lúc nào và Rafe đã cứu anh ta trong đường tơ kẽ tóc. Chiếc máy bay của anh ta đã bị vỡ làm đôi, rồi tiếp tục vỡ tan ra từng mảnh. Dù của anh này đã mở tung đưa anh ta chầm chậm rơi xuống mặt biển. Rafe lao máy bay của mình về phía hai chiếc máy bay chiến đấu của Đức, anh phóng như bay vượt qua trước mũi chúng, vừa chạy, vừa bắn, trước khi chúng còn đang nghiêng ngả để chống đỡ, anh lẩn vào những đám mây dầy đặc trên bầu trời nước Anh và cho máy bay rơi tự do thật nhanh để anh cố tìm chiếc dù của người pho công Anh đang trôi bập bềnh trên mặt nước.
Anh tin mình may mắn bởi vì anh đã tìm thấy nó nửa chìm nửa nổi trên mặt biển sóng gào và người phi công Anh vẫn còn đang lồm nhồm trong đám dù giữa biển nước mênh mông. Rafe cho máy bay của mình lùi lại một chút, ném chiếc phao xuống nước rồi sau đó gào vào máy bộ đàm gọi bộ phận cấp cứu của vùng trời ven biển trước khi anh cho chiếc phi cơ lao thẳng lên đối mặt với bọn không tặc Đức một lần nữa.
Rafe nghĩ không có gì khủng khiếp bằng cái chết, nhất là chết một cái chết cô đơn trong dòng nước lạnh và đen tối kia.
Tại sân bay của căn cứ Bassingborne, Rafe hạ cánh chiếc Sptifire trên mặt đường băng, anh có thể nghe thấy tiếng thân máy bay rung lên, những thanh kim loại ọp ẹp cọ sát vào nhau rít lên chói tai nghe như tiếng hú của một con chó già. Anh cảm ơn trời, cảm ơn con chó già bằng sắt của anh, vỗ vào nó như để bày tỏ sự cảm kích đối với lòng trung thành của nó như thể chủ và tớ vừa trở về, tả tơi, mệt mỏi sau một chuyến đi săn vất vả kéo dài.
30 phút sau anh ngồi trên chiếc ghế dưới ngọn đèn tù mù, xung quanh là màn đêm sâu thẳm. Anh đọc lá thư ai đó đặt trên giường của mình. Nét chữ của Evelyn không hề bay bướm, không có những nét viết hoa lòng vòng, nét chữ của nàng vuông vuông, thẳng thẳng ngay thật như con người của Evelyn vậy.
Rafe yêu thương!
Thật lạ lùng là chúng ta lại xa nhau đến thế. Nhưng anh hãy nhớ, vào mỗi khi mặt trời lặn, em thường thu hết sức nóng của một ngày tàn cất giữ nơi trái tim mình và gửi nó cho anh.
Rafe ngồi rất lâu với lá thư trên tay, anh cảm giác gần nàng đến nỗi cảm thấy những tâm tư tình cảm của nàng, anh có cảm giác như những gì nàng chạm tay vào anh đều sờ được. Cảm giác ấy khiến thân hình anh nóng lên như được ngọn lửa trong trái tim nàng sưởi ấm.
Rafe giật mình khi thấy chỉ huy trường Tubbs đứng đàng sau anh. Ông ta đến từ lúc nào thế nhỉ? Anh vừa định đứng lên thì Tubbs nói ngay:
- Không cần, cậu cứ ngồi xuống đi! Tớ chỉ muốn báo cho cậu biết rằng người ta đã tìm ra Nickle rồi.
- Nickle là ai? Thưa chỉ huy.
- Là viên phi công đã bị bắn rơi ngày hôm nay, chính cậu đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để cứu anh ta. Viên cứu hộ đã vớt anh chàng lên, họ nói để làm anh ta ấm lên cũng phải mất đến vài ngày. Nhưng anh ta vẫn còn sống và thế nào cũng quay trở lại đội hình chiến đấu của chúng ta.
Rafe gật đầu mừng khi nghe tin ấy. Chỉ huy trưởng Tubbs dậm bước chân đi, nhưng rồi ông quay lại:
- Ừm…có một vài người Anh tỏ ý coi thường người Mỹ bởi nước Mỹ đang khoanh tay, không tham chiến, làm ngơ trước mọi thương vong của đồng mình. Còn tôi chỉ muốn nói với cậu rằng ở Hoa Kỳ nếu còn nhiều người giống như cậu đây thì chỉ có trời mới cứu nổi những kẻ muốn mang chiến tranh đến với nước Mỹ.
Tubbs mỉm cười chào tạm biệt. Khi Rafe kịp lên tiếng đáp lễ thì ông đã đi được mấy bước rồi. Anh chỉ kịp nói:
- Cám ơn thưa chỉ huy.
Tubbs ngoái đầu lại:
- Không, chúng tôi phải cảm ơn cậu mới phải.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.