Tối hôm đó, khi tấm trần trượt sang bên, chỉ có khuôn mặt của Kate thò ra.
“Constance đâu?” Reynie thì thầm.
“Đi đếm bò rồi,” Kate trả lời. “Đứa hay ngủ gật nhất tớ từng gặp. Ngủ gật ngay tại bàn học. Tớ không gọi bạn ấy dậy được.”
“Tớ nghĩ là cậu có thể kể lại với bạn ấy sau,” Reynie nói một cách hồ nghi, và Sticky lắc đầu vẻ không tán thành.
“Rất vui khi thấy bọn con trai các cậu,” Kate nói, ngồi lên sàn nhà. Cô bé bắt chéo chân theo hình một cái bánh quy xoắn phức tạp mà các cậu bé cho rằng không thể làm được. “Tớ chán học lắm rồi. Tớ phải đọc đi đọc lại các ghi chép hàng trăm lần, nhưng chả có tí nào dính vào đầu cả. Thật vô nghĩa! ‘Bạn phải làm việc nhiều hơn nếu muốn có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn’? ‘Phải có chiến tranh thì mới có hòa bình’? Các ‘kết luận logic’ này là thế nào? Cho tớ biết đi!”
Reynie cười chán nản. “Thế còn ‘Quan trọng là phải bảo vệ chính mình vì bảo vệ chính mình là điều không thể’ thì sao?”
“Oh, vâng, giờ học vệ sinh ấy à,” Kate chán ghét nói. “Đó là cái hay nhất. Tớ không bao giờ nghĩ rằng việc đánh răng lại có thể làm mình thấy vô vọng như vậy.”
Reynie nghiêng đầu. Điều Kate nói có cái gì đó quen quen. Nhưng nó là cái gì?
“Cái đó cũng chẳng có ý nghĩa gì với tớ,” Sticky nói, “nhưng tớ dễ dàng ghi nhớ nó. Tớ có thể giúp cậu học, Kate.”
“Khi nào?” Kate tức giận nói. “Chả có lúc nào cả! Không, tớ tự làm được.”
“Ổ., ồ, được rồi,” Sticky nói một cách ngoan ngoãn, hiển nhiên là cậu bé thấy bị tổn thương.
Kate đang quá bận bịu nên chẳng nhận ra. Cô bé lơ đãng kết tóc mình thành nhiều búi phức tạp, rồi lại tách chúng ra. “Các cậu, tớ thực sự không hiểu. Học đống đặc sệt này để làm gì chứ?”
Nó đột nhiên khiến Reynie hiểu ra điều gì đó mà cậu bé thấy quen thuộc. “Tớ nghĩ nó liên quan đến thông điệp ngầm! Còn nhớ cụm từ mà chúng ta nghe được từ Máy nhận không? ‘Đánh răng và tiêu diệt vi khuẩn’? Chắc chắn nó liên quan tới giờ học vệ sinh, các cậu có nghĩ thế không?”
“Này, đúng thế!” Kate nói, khuôn mặt cô bé bừng sáng.
“Và tớ đang nghĩ đến điều này, ngày đầu tiên ở đây chúng ta nghe lỏm bọn trẻ trong lớp của S.Q. nói đi nói lại về thị trường thế này thị trường thế kia…”
“Bài luyện tập Thị trường Tự do,” Sticky nói.
“Chính xác! Và ‘thị trường’ là từ đầu tiên chúng ta nghe được qua Máy nhận của ngài Benedict, nhớ không?”
Sticky gật đầu - tất nhiên là cậu bé nhớ ra - nhưng Kate chỉ lắc đầu.
“Tớ thấy mình sẽ phải nhớ thông tin này,” cô bé nói. “Dù sao, các lớp học hiển nhiên có liên quan đến các thông điệp ngầm. Vấn đề hiện nay là làm thế nào để gắn kết chúng lại với nhau.”
“Càng sớm trở thành Liên lạc viên, bọn mình sẽ càng sớm tìm ra!” Reynie hưng phấn nói.
“Hiện tại thì bọn mình vẫn chưa phải là những Liên lạc viên đâu đấy nhé, bình tĩnh lại chút đi,” Sticky nói, cậu bé vẫn đang cố hồi phục sau cảm giác bị tổn thương và cảm thấy hơi khó chịu. “Chúng ta mới chỉ ở đây được vài ngày.”
“Thật vậy,” Reynie thở dài. “Được rồi, báo cáo việc này cho ngài Benedict thôi.”
Bọn trẻ chuẩn bị gửi báo cáo về đất liền, nhưng phải dừng lại bởi có sự xuất hiện của ngài Curtain ngoài quảng trường. Sau đó, ngay khi ngài Curtain cũng vào bên trong, một vài Điều hành viên xuất hiện và đi dạo nhàn nhã quanh Học viện. Họ có vẻ muốn đi dạo ở mọi ngóc ngách, mọi lối đi. Đã muộn quá rồi, bọn trẻ thì gần như kiệt sức và quyết định hoãn lại. Chúng không thể học tốt trên lớp nếu không tỉnh táo.
“Báo cáo để lại sau đi,” Kate vừa nói vừa ngáp, “trong lúc đó chúng ta đi ngủ thôi. Ngủ ngon nhé các cậu.”
Cô bé lon ton trèo lên dây, chui vào vào trần nhà, và biến mất. Sticky và Reynie nhìn theo cô bạn với vẻ thích thú và ngưỡng mộ. Bọn chúng vẫn cần thêm thời gian để quen với cách Kate xuất hiện và cách cô bé rời đi.
“Nó như thế nào nhỉ, đi đây đó theo cái cách của Kate ấy?” Sticky băn khoăn.
Reynie nhún vai. “Tớ nghĩ là khá bụi bặm đấy.”
Lúc lâu sau khi Kate đã vượt qua con đường bụi bặm và các cậu đã lên giường, Reynie vẫn thao thức, cố làm dịu thần kinh bằng cách sáng tác một bức thư tâm hồn gửi cô Perumal. Cậu chưa bao giờ thực sự viết bức thư đó, tất nhiên - vì chẳng bao giờ gửi được - nhưng nó xoa dịu Reynie khi nghĩ đến cô Perumal, đến những phút giây thảnh thơi không hề có sự hiện diện của trách nhiệm hay hiểm nguy, cùng nhấm nháp ly trà, được cô giáo sửa những lỗi ngữ pháp tiếng Tamil. Cậu nhớ về những buổi chiều dễ chịu cùng đi bộ - trong Công viên Oldwood, bàn luận về cái này cái kia - về mẹ của cậu, hoặc những cái cây già trong công viên, hoặc bóng rổ, hoặc về những chú chó. Và cả những lúc cậu kể lể với cô về những trò trêu chọc man rợ của những đứa khác, cô Perumal không bao giờ đưa ra lời khuyên - vì chắc hẳn là vô dụng - mà chỉ gật đầu và tặc lưỡi, mỉm cười buồn bã với Reynie cứ như thể ký ức của cậu bé chính là của cô. À, cậu cho là họ đã chia sẻ điều đó, giờ thì cậu đã nói với cô rồi đấy. Và bằng cách nào đó, điều này luôn tạo ra ảnh hưởng tốt với cậu - thậm chí, có khi, khiến cậu vui vẻ hẳn lên.
Reynie vừa kết thúc bức thư khi nghe thấy Sticky thức dậy và đi quanh phòng, và sau đó, dừng lại, thì thầm, “Reynie, cậu còn thức không?”
Đáng lẽ đó đã con đường đẹp đẽ đưa cậu vào giấc ngủ “Ừ, tớ chưa ngủ,” cậu trả lời.
“Bờ biển vắng người rồi.”
Reynie nhìn xuống.
Sticky đeo kính mắt lên và nhìn ra ngoài cửa sổ. “Nếu Kate vẫn chưa mang đèn pin của bạn ấy đi, thì bọn mình đã có thể gửi báo cáo. Lần tới bọn mình cần ghi nhớ việc này. Với cái đèn pin, tớ và cậu đã có thể làm gì đó để thoát khỏi buổi tối khó ngủ này.”
“Có thể nhấp nháy đèn,” Reynie đề nghị.
“Tớ cũng đang nghĩ thế đây,” Sticky nghi ngờ nói, có vẻ bứt rứt, lo lắng, “nhưng nếu có ai đó ở ngoài thì sao? Tớ không thể để ý bên ngoài nếu nháy đèn.”
“Bọn mình có hai người, nhớ chứ. Tớ sẽ canh chừng cửa sổ.”
Sticky quẳng bộ quần áo bóng lộn của mình sang một bên. “Tớ thấy sợ,” cậu bé nói, rồi vội vàng vơ mảnh vải trên bàn và lau nhanh mắt kính. “Tớ lúc nào cũng cứ tưởng tượng ra khuôn mặt cậu bạn Liên lạc viên đó lúc Jackson nói sẽ dẫn cậu ấy về Phòng Chờ. Điều cuối cùng bọn mình muốn là nghi ngờ một cái gì đó.” Cậu bé đeo kính lên và thở dài. “Bây giờ tớ ước gì chưa từng nói đến nó. Nhưng tớ cho rằng bọn mình cần phải làm thế, đúng không?”
“Hai đứa mình sẽ làm thật nhanh và quên nó đi,” Reynie nói.
Đèn nháy, nhưng thật không may việc này có tạo ra một tiếng động nhỏ. Sticky co rúm sau mỗi lần bấm, cứ như thể cậu ta đang bị sốc, và đến cuối thông điệp, sự run rẩy khiến ngón tay đầy mồ hôi của cậu bấm trượt nút. Cuối cùng thông điệp cũng được gửi đi, và không ai phát hiện ra.
Nhìn về bờ biển phía đất liền, Reynie cười khúc khích. “Họ muốn biết chúng ta vẫn đang thức làm gì.”
Sticky cảm thấy quá lo lắng để có thể mỉm cười. “Còn gì khác không?”
“Chúng ta làm việc rất tuyệt, chúng ta phải tiếp tục cẩn thận, và bây giờ chúng ta thực sự phải đi ngủ.”
“Họ nói tất cả những điều đó à?”
Reynie trèo xuống khỏi tivi. “À, họ nói, ‘Tuyệt vời. Cẩn thận. Ngủ.’”
“Họ không cần phải nói với tớ lần hai,” Sticky nói, rồi chui vào giường. “Đặc biệt không cần cái đoạn cẩn thận đấy. Bụng tớ ổn rồi, Reynie. Lúc nào cũng vậy.”
“Tớ biết,” Reynie nói và trèo lên giường. “Tớ cũng thế. Nhưng ít nhất chúng ta biết được là ngài Benedict và nhóm của ngài ấy vẫn đang theo sát bọn mình từ phía bên kia. Bọn mình không cô độc, đúng không?”
“Tớ cho là điều đó đáng để khích lệ,” Sticky nói không chắc chắn lắm.
“Tớ thấy là cậu không cảm thấy chắc chắn lắm.”
“Không,” Sticky trả lời, kéo chăn sát đến cằm. “Không, kể từ khi tớ lần đầu tiên nhìn thấy ngài ấy, tớ đã luôn tưởng tượng ra cảnh ngài Curtain đuổi theo mình, càng lúc càng gần. Ông ta có vẻ còn gần bọn mình hơn cả ngài Benedict và những người khác xa xa trên bờ biển kia.”
Lần này Reynie không nói gì. Cậu hiểu quá rõ cảm giác của Sticky. Giá mà cậu có thể nói điều gì đó để an ủi, điều gì đó để xoa dịu sự lo lắng của Sticky - và, tất nhiên, điều gì đó để xoa dịu chính mình. Cậu nghĩ, rồi lại nghĩ, nằm thao thức một lúc lâu, suy nghĩ. Chắc chắn phải có điều gì đó.
Nhưng nếu có, cậu cũng chưa thể nghĩ ra.
Sự sợ hãi bao phủ bóng ma lên Sticky: cậu ngủ ít quá, và cả buổi sáng hôm sau cậu rất khó để có thể luôn tỉnh táo. Khi bài giảng của Jackson bắt đầu, mí mắt của cậu nặng đã như đe. Phải nỗ lực lắm - gồm cả những cú véo chân đau đớn - cậu bé mới có thể giữ cho đôi mắt không sụp xuống và chú ý đến bài giảng dài. Cuối cùng Jackson cũng kết thúc, và mặc dù buồn ngủ díp cả mắt lại nhưng Sticky vẫn nắm được toàn bộ kiến thức trong đầu. Thời gian ôn tập cuối buổi không yêu cầu cậu bé phải có mặt, có nghĩa là nó yêu cầu sức mạnh ý chí - đó là tất cả những gì cậu bé có thể làm để tỉnh táo. Cậu bé cần có cái gì đó ở trong đầu.
Cho nên Sticky tập trung vào Corliss Danton, vừa trở lại lớp sáng nay, với cách ăn mặc không thể chỉn chu hơn. Ngược lại, cậu bé có vẻ là một học sinh gương mẫu: Cậu ta ngồi thẳng như cái thông nòng ở bàn học, chăm chú lắng nghe, và bộ đồng phục Liên lạc viên của cậu ta không chê vào đâu được. Thực tế là bản thân cậu ta khá chói lọi. Từ ngón tay đến chân, nước da hồng hào như được chà kỹ; thậm chí móng tay cũng có vẻ như được cắt tỉa tỉ mỉ. Cậu ta trông cứ như là có mùi bánh xà phòng vậy. Corliss hiển nhiên có ý định tạo ấn tượng tốt, Sticky nghĩ. Cậu ta muốn có vẻ bề ngoài sạch sẽ khỏi mọi điều sai trái trong quá khứ.
Chỉ khi Corliss liếc mắt qua Sticky và nhìn ra phía cửa vài lần, Sticky mới nhận ra rằng cậu ta chưa hoàn toàn hồi phục từ sau chuyến viếng thăm Phòng Chờ. Khuôn mặt cậu ta mệt mỏi, thậm chí là choáng váng, cứ như thể cậu chưa từng được chợp mắt một lúc, và sự đau khổ hiện rõ trong mắt cậu bé. Không phải là lần đầu, Sticky cảm thấy băn khoăn về những thử thách mà Corliss đã trải qua. Sau đó cậu bé nhận ra rằng cậu không muốn nghĩ về nó, vì nó làm cậu thấy đói và buồn ngủ.
Sticky không biết rằng mình ngủ gật, mặc dù Martina Crowe đã rít lên, “Này cậu! Bốn mắt hói đầu gầy nhom! Cậu đang ngủ đấy à? Cậu không muốn trở thành học sinh siêu nhân nữa à?”
Sticky giật mình mở mắt. Bọn học sinh xung quanh cậu bé cười khúc khích, và các Liên lạc viên (gồm cả Corliss) thì giễu cợt với vẻ khinh khỉnh. Sticky bối rối chỉnh lại gọng kính.
“Nhìn cậu ta đang đánh bóng kính mắt kìa!” Martina nói. “Đúng là đồ lập dị!”
“Im lặng!” Jackson hét lên trước lớp. Cái nhìn lạnh lẽo của anh ta rơi xuống Sticky. “Mày có thể nói bất kỳ điều gì mày muốn khi được cho phép,” Jackson nói thêm: “Nhưng ngay bây giờ không ai được làm thế cả.”
Đờ người ra, Sticky thậm chí không thể gật đầu.
Kate không kiềm chế được nữa, tức giận nói. “Nhưng người nói không phải là Sticky!”
Hóa ra Martina ngồi ngay phía trên Kate, xoay lại với một cái nhìn ngạc nhiên. Kate đáp lại cái nhìn của cô bé bằng vẻ mặt bướng bỉnh, khiến Martina còn ngạc nhiên hơn. Trước khi hai đứa có thể nói ra từ nào, Jackson đã bước nhanh xuống lối đi để đe dọa Kate. “Mày đã giơ tay xin phép được nói chưa?”
Kate lắc đầu, và sau đó giơ tay lên, với vẻ mặt sáng ngời.
“Không,” Jackson nói. “Mày không có quyền giơ tay. Tao cảnh cáo mày và thằng bạn của mày đấy,” anh ta nhìn chằm chằm vào Sticky và nói, “thách thức một Liên lạc viên không có lợi cho bọn mày đâu.”
Martina vuốt dọc mái tóc quạ đen của cô bé và gật đầu một cách cực kỳ tự mãn. Khuôn mặt của Kate nóng bừng đỏ như gấc - cô bé giận điên lên nhưng vẫn cố im lặng kiềm chế. Jackson trở lại vị trí trước lớp, và bọn học sinh trở lại bận rộn với việc ghi chép.
Tất cả ngoại trừ Sticky, cậu bé không thể tập trung được nên nhìn chằm chằm về phía Jacky và Martina, người đang tỏ ra cực kỳ hài lòng với bản thân. Dưới bàn của Martina, Kate đang xỏ chân trở lại vào giày của cô bé. Nhưng tại sao cô bé lại cởi giày ra? Trời quá lạnh để đi chân trần. Ngay sau đó Martina bắn ra một tia nhìn về phía Sticky. Sticky quay mắt đi và không nhìn lại hướng đó. Cậu bé cảm thấy sự hiểm độc mà không cần ngoảnh lại.
Và đó cũng là lúc Jackson giải tán lớp và Martina nhảy khỏi chỗ ngồi, Sticky nghe thấy nhưng không nhìn lại, Martina đập mặt xuống sàn nhà. Cậu bé nhìn lại một cách ngạc nhiên. Sổ tay, giấy ghi chép và bút chì rơi khắp nơi, và Martina từ từ nâng người lên bằng tay và đầu gối, thở phì phì và lắc lắc đầu trong khi đang cố chịu đựng. Dù có phải là Liên lạc viên hay không, sự vụng về của cô bé đã tạo ra một tràng cười từ các học sinh khác - ngoại trừ Kate, cô bé đang tỏ ra không để ý trong khi đang nắm tay Sticky, và kéo cậu bé về phía cửa.
“Tớ đã buộc dây giày của cô ta vào bàn,” cô bé thì thào. “Bằng ngón chân tớ.”
“Tuyệt,” Constance nói trong bữa trưa. “Bọn mình không chỉ có một nhiệm vụ bí mật nguy hiểm, mà bây giờ bọn mình còn có cả kẻ thù nữa. Làm tốt lắm, Kate.”
Kate cười vang. “Cô ta đã là kẻ thù của bọn con trai rồi. Tớ chỉ tự thêm bản thân vào danh sách đó thôi. Cậu muốn tớ làm gì nào, để cô ta đi như vậy à? Cô ta đã gọi cậu ấy là đầu hói, lạy chúa.”
“Tớ mà hói sao,” Sticky nói, vuốt tay lên da đầu. “Đó là lỗi của tớ. Tớ đã dùng thuốc rụng tóc khi bỏ trốn, để ngụy trang ấy mà.”
“Đó là lời giải thích,” Reynie nói. “Tớ đã muốn hỏi nhưng không dám.”
“Không phải là thứ thuốc rụng tóc chích đau như quỷ đấy chứ?” Kate hỏi.
“Tớ biết thế, nên đã phát minh ra một hỗn hợp riêng, thêm vào các thành phần khác để nó không đau.”
“Nó có tác dụng không?” Constance hỏi, hiển nhiên là mong nó không có tác dụng.
“Không,” Sticky thừa nhận. “Cảm giác như đầu tớ có lửa vậy, và bây giờ có vẻ như là tóc tớ sẽ vĩnh viễn không mọc lại như xưa! Thậm chí nó còn chưa bắt đầu mọc nữa!”
Mấy đứa tủm tỉm cười, rồi nhìn nhau nhăn nhở, khúc khích. Và cuối cùng - không thể kiềm chế được nữa, chúng bò lăn ra cười. Sticky rên rỉ và cúi đầu nhưng cuối cùng chính cậu bé cũng phải bật cười. Khoảnh khắc ấy, tiếng cười dường như đã xua tan đi những khó khăn trước mắt, và bọn trẻ không muốn từ bỏ bất cứ điều gì cả.
Nhưng đến cuối cùng, chúng không biết được rằng tiếng cười đó rồi cũng sẽ vội biến mất. Và không giống như tóc của Sticky, những khó khăn trước mắt không ngần ngại quay trở lại.