Quỷ Thoại Liên Thiên

Chương 9: Chợ quỷ (Trung)




Thế nào gọi là lối vào âm ty? Mặc dù rất nhiều người từng nói rằng đã chính mắt nhìn thấy Âm Dương giới nơi quỷ hồn cư ngụ, nhưng thực ra nơi đó là một nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới con người. Đó là nơi người sống không thể ở, cũng không thể đến, chỉ cần bước chân vào đó là vĩnh viễn trở thành cư dân của nó, không có cách nào quay về dương gian được nữa.
Khi còn bé tôi cũng từng nghe không ít chuyện về âm ty, hầu hết đều là do bà nội kể. Bà nói những người ở đó đều không biết lạnh không biết đói, không có khái niệm về thời gian hay không gian. Bọn họ chỉ cố chấp lập đi lập lại những hành động mà khi còn sống họ còn vương vấn nhất, nếu khi còn sống là một tên cờ bạc, vậy khi chết đi sẽ không ngừng đổ xúc xắc; nếu khi còn sống thích hát xướng, vậy khi chết đi sẽ phải hát xướng từ ngày này sang ngày khác.
Khi đó tôi nghe đến đấy thì đã cảm thấy lạnh buốt sống lưng, nuốt nước miếng ngây thơ hỏi bà: “Bà, tất cả mọi người khi chết rồi đều phải đến đó sao?”
Bà nội sờ sờ đầu tôi mỉm cười trả lời: “Không phải, nếu cả đời làm người tốt thì chết đi có thể đến thế giới cực lạc nha. Không cần phải tới chỗ đó.”
Khi còn bé tôi chỉ biết tin tưởng vào câu nói đó của bà nội, chỉ cần làm người tốt thì không cần phải xuống địa ngục, không cần bước vào lối âm ty. Nhưng lớn lên mới hiểu, một chữ “người tốt” đơn giản là vậy, nhưng lại không dễ làm chút nào. Dù sao đi nữa thì tôi cũng tự thấy mình càng ngày càng cách thế giới cực lạc xa hơn, xem chừng chết đi rồi thế nào cũng phải đến nơi âm u nọ, vĩnh viễn làm đi làm lại một việc. Đó có thể là chuyện gì nhỉ? Tôi tự hỏi rất lâu, cuối cùng kết luận, chắc là việc…ngủ!
Từ khi Bạch Dực nói sẽ đem tôi tới chợ quỷ kia, tôi ngày đêm đều tưởng tượng về nó, trong đầu lúc nào cũng rối tinh rối mù, lo lắng không thôi. Hậu quả là mấy ngày không sao ngủ nổi, cứ vẩn vơ suy nghĩ về chuyện này. Không chỉ vì hiếu kỳ đối với quỷ thành, mà quan trọng nhất chính là do chiếc khăn tay trắng toát kia quá sức chói mắt, mang theo hơi thở chết chóc nặng nề. Mỗi lần về nhà nhìn thấy cái khăn tay móc trên bệ cửa sổ, lại có cảm giác như ngài Bạch Vô Thường[1] đang rình mò bên ngoài vậy, cực kỳ khó chịu.
Không cần biết nơi kia quỷ dị tới mức nào, chỉ cần Bạch Dực bảo cái khăn tay nọ có khả năng ăn mòn sinh mạng của chúng tôi thôi là tôi đã đứng ngồi không yên rồi. Tôi chỉ là một người bình thường, mà có người bình thường nào lại không sợ chết đâu?
Nhưng trái lại, Bạch Dực từ khi ăn cái bánh kia thì hết hẳn bệnh cảm. Thuốc rốt cuộc mua rồi về xếp xó, anh ta cũng không uống, chỉ ngủ một giấc sáng hôm sau đã khỏe mạnh phơi phới hào hứng đi dạy. Tôi âm thầm cảm khái, người như anh ta hạnh phúc biết bao nhiêu, cho dù bị cảm nặng cũng chỉ hắt xì vài cái là xong chuyện.
Hôm nay đã cách ngày hôm đó mấy ngày, tôi vẫn nhịn không dám nhắc, vì sợ can thiệp vào sự chuẩn bị của Bạch Dực, nhưng nhìn anh ta đã mấy ngày trôi qua mà cứ nhơn nhơn như không có chuyện gì, tôi thực sự có hơi mất kiên nhẫn.
Buông giáo án, tôi dùng ngón tay gõ nhè nhẹ lên bàn làm việc của Bạch Dực: “Này, lão Bạch, anh phải tìm cách giải quyết chuyện đó cho sớm đi chứ!”
Anh ta buông tờ bài tập đang chấm dở xuống, ngẩng đầu nhìn tôi hỏi: “Chuyện gì cơ?”
Tôi bị anh ta cắc cớ hỏi ngược lại một câu, lập tức nổi trận lôi đình, trong lòng nghĩ, chỉ có anh mới không sợ chết! Nhưng việc này chỉ có anh ta mới có thể giải quyết, tôi đành nén giận ôn tồn nói: “Lão Bạch, anh quên rồi sao? Cái, cái khăn tay của Tá Thọ bà ấy…!” Vì sợ người ta nghe thấy, tôi bèn đứng lên, nghiêng người tới phía trước thì thầm vào tai anh ta.
Anh ta lại cúi xuống tiếp tục chấm bài, trả lời tôi mà không thèm ngẩng đầu lên nữa: “Cầm thì ũng cầm rồi còn nói sao được nữa bây giờ, cậu cho là chợ quỷ giống chợ chiều gần nhà chúng ta, muốn đi là đi ấy à? Cái khăn tay đó tôi cũng cầm rồi, muốn chết tôi cậu chết chung, sợ gì?”
“Chết tiệt, coi như anh có bản lĩnh có năng lực, tôi không khách khí nói thẳng nhé, tôi không muốn chết, cũng chưa thể chết được! Tôi còn chưa cưới vợ, cũng không nghĩ tới việc nắm tay một thằng đàn ông khác chết chung, nhé!” Tôi biết mình đang rất quá đáng, nhưng quả thực tôi rất sợ những thứ kia. Tuy nhiều người có thể gọi đấy là mê tín, nhưng đó là chỉ khi họ còn chưa thực sự đụng chuyện mà thôi. Còn nếu đã gặp, mọi người sẽ thấy nó không còn là mê tín nữa. Người Trung Quốc gọi đó là mạng, còn người nước ngoài, văn vẻ hơn, thì gọi là định mệnh…
Bạch Dực nhìn dáng vẻ hoang mang sợ hãi của tôi, thở dài một hơi: “Gấp cái gì! Cái khăn đó ở lại đây ít lâu cũng không lập tức hại chết chúng ta được, chúng ta cũng đã ăn bánh của bà ta rồi còn gì, có biết cái gì gọi là triệt tiêu lẫn nhau không?”
Tôi nghe thế liền gật gù, nhưng rồi nhất thời lại đem lòng tiếc số mệnh vừa bị “trung hòa” này. Nếu không, được sống thọ hơn chút đúng là một chuyện may mắn.
Bạch Dực nhìn mớ bài tập trước mặt, lại xoay người nhìn ra sắc trời ngoài cửa sổ rồi quay lại nói với tôi: “An Tung, không cần gấp, tối nay là lúc chúng ta tới chợ quỷ, cậu phải đi mua cho tôi vài thứ, tối nay sẽ cần tới. Thực sự lần này đi tới ‘chỗ đó’ cực kỳ nguy hiểm, cậu nhất định đừng mua nhằm thứ giả đó.”
Tôi chớp chớp mắt mấy cái: “Vậy tức là anh cũng không dám chắc chúng ta có an toàn trở ra hay không?! Vậy mà anh còn thảnh thơi đến thế?” Thật sự quá mức khâm phục cái cá tính thấy chết không sờn này của Bạch Dực, nhưng vấn đề là anh ta cứ việc không sờn cái mạng của anh ta, còn tôi vẫn còn quý mạng mình lắm!
Bạch Dực cười cười: “Tôi chỉ nói tôi có cách đi vào đó, còn có thể an toàn đi ra hay không là tùy vào may mắn của chúng ta tới đâu. Nhưng cái khăn tay kia mà không trả lại thì sớm muộn gì chúng ta cũng thành cư dân vĩnh viễn của nơi đó luôn!”
Tôi xụ mặt xuống, nghĩ thầm, biết vậy thì từ đầu đừng thèm bắt chuyện với bà già kia cho đỡ khổ, giờ thì hay rồi, đã không có gì có lợi còn đẩy cả hai vào nguy hiểm như vậy. Cắn cắn môi, cuối cùng tôi ngẩng lên dứt khoát nói với Bạch Dực: “Vậy còn lo lắng làm gì! Mau nói cho tôi biết phải mua cái gì, tôi đi mua ngay bây giờ!”
Bạch Dực rút giấy bút ghi nhanh mấy từ, sau đó giật tờ giấy ra đưa cho tôi: “Nhớ kỹ đừng mua nhầm, phải hoàn toàn khớp với yêu cầu đấy, bằng không có khi không về được nữa đâu!”
Tôi run run nhận tờ giấy, nhìn qua một chút, càng nhìn càng cảm thấy kỳ quái.
Trên tờ giấy của Bạch Dực chỉ có vài hàng nguệch ngoạc: bốn cây nến trắng, nhưng phải là loại chống được gió, một lượng máu chó mực vừa phải, một cái đầu gà trống, một xấp vàng mã, hai cái chuông đồng.
Tôi nhìn kỹ tờ giấy, lại ngẩng lên nhìn Bạch Dực: “Lão Bạch, thật sự chỉ cần mấy thứ này thôi sao? Sao giống như đi tảo mộ vậy?”
Bạch Dực cười cười: “Đúng thế, mấy thứ này rất cần để chúng ta có thể lọt vào đó an toàn.”
Tôi lo lắng hỏi: “Còn mấy thứ như Khai Quang Phù, Mật tông pháp khí gì đó thì sao?”
“Mấy thứ đó cậu mua nổi à?” Bạch Dực cười nhạo.
Tôi tự động lắc đầu, mấy thứ kể trên, nếu đúng là hàng thật, thì có khi còn đáng giá bằng mấy tháng lương còm của tôi ấy chứ, làm sao mà mua nổi…
Vì vậy anh ta thở dài: “Chỉ cần mấy thứ này được rồi, dù sao thì mấy thứ trên cũng không có tác dụng nhiều lắm đâu…”
Tôi gật đầu, yên lặng gấp tờ giấy lại cẩn thận nhét sâu vào túi.
Hoàn thành xong tiết Mỹ thuật cuối cùng trong ngày, tôi soạn vội sách vở, cho học trò tan học rồi nhanh chóng chạy ra chợ. Thời gian thực sự quá gấp, Bạch Dực nói trong những thứ liệt kê có những thứ chỉ mua được ở những cửa hàng nhất định, cho nên tôi không dám rẽ bừa vào những cửa hàng tạp nham bên đường, chỉ sợ nếu là hàng giả thì hai cái mạng của chúng tôi cũng bị nó hại cho đi luôn. Cái xe đạp bị tôi đạp như đang cưỡi mô tô chạy từ đầu chợ tới cuối chợ, đi một hai vòng như vậy thì những thứ cần thiết căn bản cũng mua xong.
Chỉ còn lại máu chó mực, thực sự tìm không ra. Tôi đi hết những sạp bán thức ăn đều không có, mà cho dù có thì cũng là máu chó vàng chó trắng này nọ, không có máu của chó đen tuyền.
Trong tay xách theo một đống túi lớn bọc nhỏ, tôi đau khổ ra chỗ bán rau ngoài đầu chợ, ngồi xổm xuống bên cạnh cái xe đạp. Lúc này đang là mùa đông nên ngày rất ngắn, thoáng cái mà mặt trời chỉ còn là một vạch hồng mỏng mang ở chân trời phía tây. Trời còn chưa tối hẳn, nhưng đèn đường đã lần lượt sáng lên, tràn ra lòng đường một loại ánh sáng vàng cam nhợt nhạt. Hôm nay là ngày trăng tròn, mặt trăng lúc này đã sáng rực lên, tỏa ra ánh sáng màu ngọc trai bàng bạc, giữa sắc trời xam xám nhạt nhòa, vầng trăng cũng dường như trong suốt. Ánh sáng trăng lúc này cực kỳ huyền hoặc, giống như đang câu hồn người. Giống như chúng ta ngắm trăng, rồi lại phát hiện nó cũng đang ngắm nhìn chúng ta vậy.
Chán nản gục đầu xuống, tôi đau khổ nghĩ vì sao bản thân lại xui xẻo tới vậy, chỉ cần ngày hôm đó đừng có nói chuyện với Tá Thọ bà, thì lúc này đâu đến nỗi…Rõ ràng lúc đó bà ta không muốn tiếp cận tôi, tai bay vạ gió này là do tự tôi rước vào thân, thật sự không còn gì để chối…
Tôi lau mặt, thở dài, trong lòng đã rối tung lên. Nhưng vừa lúc vô tình liếc mắt xuống dưới gầm cái xe đạp dựng cạnh đó, đột nhiên phát hiện dưới xe là một con chó đang nằm, cả người đen bóng! Tôi dụi dụi mắt mình, chỉ sợ bị hoa mắt. Nhưng không, con chó mực kia vẫn đang bình thản nằm không nhúc nhích dưới gầm xe! Đôi mắt tôi sáng rỡ lên, trong lòng cảm ơn trời cảm ơn đất rối rít.
Con chó kia cũng không lớn lắm, là một con chó con, bộ lông đen thuần một sắc không có lấy một sợi lông tạp, bóng loáng như bôi dầu. Nó nằm dưới một cái xe đạp, mắt nhắm nghiền, dường như đang ngủ.
Tôi buông cái túi trong tay xuống, rón rén từng bước tiến tới gần cái xe đạp, chậm rãi nhẹ nhàng cúi người xuống, từ từ bò tới bên cái xe… hai tay mở ra chuẩn bị tóm lấy con chó…Đột nhiên một đôi tay to lớn nặng nề hạ xuống vai tôi, tôi giật bắn người ngẩng lên, hóa ra là ông già trông xe. Ông ta kéo tôi ngã dúi xuống, một tay của tôi cũng bị ông ta bẻ quặt ra phía sau, giống như cảnh sát bắt ăn trộm vậy. Tôi đau tới mức hét ầm lên.
Ông già cũng hét lên: “Dám có can đảm tới đây ăn trộm xe của ông đây, thằng nhãi con này muốn chết rồi phỏng?”
Tôi đau tới mức nước mắt nước mũi giàn dụa, hổn hển nói: “Đại gia, ôi đại gia, ông buông ra, cháu, cháu không có ăn cắp xe đạp, cháu, cháu chỉ cần con chó kia thôi…!”
“Nói dóc!” Ông già rõ ràng không tin, dùng lực bẻ tay tôi một cái, tôi đau đến mức hét lên, một đám người liền ùa tới vây quanh chỉ chỉ trỏ trỏ, có vẻ ai cũng nghĩ tôi đúng là ăn trộm xe.
Tôi vội vã hô to: “Đại gia, đại gia đại ân đại đức, cháu thật sự không ăn cắp xe đạp mà! Cháu là giáo viên, giáo viên đó! Trong túi áo của cháu có thẻ chứng nhận công tác đấy, không tin ông tự xem đi!!!”
Ông già rút cái ví từ túi áo của tôi ra, thấy chứng minh thư, hai tay mới thoáng thả lỏng ra, nhưng vẫn không buông tha. Tôi âm thầm kêu khổ, tự hỏi sao lão già này lại mạnh tới vậy chứ! Ông ta mà ra tay mạnh thêm chút nữa thì tay tôi đã trật khớp rồi. Ông ta quay sang tôi hỏi: “Vậy cậu rình mò bên đống xe đạp làm cái gì? Không ăn cắp xe cần gì phải lén lút như vậy?”
Trong lòng tôi kêu khổ không ngừng, đã bảo mấy lần là vì con chó kia thôi mà. Đang khi chuẩn bị giải thích, chợt tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng của Bạch Dực trong đám đông người xung quanh, liền gào to: “Lão Bạch, mau tới giúp tôi đi! Lão Bạch!!!”
Bạch Dực không cam tâm tình nguyện chút nào nhưng vẫn phải tiến tới, vì mọi người đều nhìn sang anh ta. Anh ta ho khan bước về phía tôi, nói với ông già: “Đại gia, ông thả cậu ta đi, cậu ta thực sự không muốn ăn cắp xe đâu…Chỉ muốn mượn ít máu của con chó nhà ông nuôi thôi.”
Đúng là phân biệt đối xử, ông già vừa nhìn thấy Bạch Dực thì đã tỏ ra hòa hoãn hẳn, nhanh chóng bỏ tay tôi ra, sau đó chỉ vào con chó nói: “Cậu muốn máu của con chó này? Không được không được, vậy nó sẽ chết mất còn gì!”
Bạch Dực vội vã nói: “Không không, không chết đâu mà sợ, chỉ cần một chút máu của nó thôi mà.”
Ông già do dự hồi lâu vẫn có vẻ không muốn đồng ý. Bạch Dực cảm thấy ông ta ngần ngừ, liền lập tức bồi thêm một đòn: “Đại gia yên tâm, chỗ này có 100 đồng, coi như là tiền chúng tôi mua máu của con chó nhà ông!” Nói xong lập tức móc trong túi ra 100 đồng.
Ông già thấy tiền đã lập tức đồng ý. Lại còn hăng hái lấy dao bầu trong nhà mình ra chuẩn bị lấy máu con chó.
Con chó con này quả thực rất tinh ranh, vừa thấy chủ nhân cầm dao bước tới, nó không bỏ chạy nhưng trong mắt hiện lên vẻ cầu xin tha thiết, sau đó rên lên những tiếng cực kỳ đáng thương như đang cầu xin tha thứ.
Ông già nhỏ nhẹ trấn an nó, sau đó nhanh như chớp rạch một đường trên đùi con chó. Máu tươi lập tức chảy ra, con chó rít lên đau đớn, có lẽ do quá đau nên cả cơ thể bé nhỏ cứ run bắn lên. Bạch Dực nhanh như chớp nắm lấy chân nó, cầm chén hứng đủ một chén, sau đó sờ sờ đầu nó, quay lại nói với ông già: “Đại gia, cảm ơn ông đã giúp đỡ. Ông nên nuôi con chó này thật tốt, nó có thể giúp ông tránh được nhiều tai họa đấy.”
Ông lão gật đầu, cầm 100 đồng, bế con chó lên đi băng bó.
Cầm chén máu chó trong tay, tôi bước tới bên cạnh Bạch Dực, anh ta đang giúp tôi nhặt mấy cái túi lên, thở dài: “Tôi biết thế nào cậu cũng mua thiếu món này, nhưng không ngờ cậu dám trở thành ăn trộm cơ đấy!”
Tôi vừa nghe thế lập tức phản bác: “Nếu anh đã biết tôi chắc chắn mua không được máu chó sao còn bắt tôi đi?! Mà sao anh cũng có mặt ở chỗ này?” Thực ra tôi cảm thấy rất thắc mắc, vì bình thường anh ta không bao giờ chịu đi chợ.
Anh ta nhìn sang tôi: “Vì ở cái chợ này chỉ có một mình con chó này là chó mực hoàn toàn thôi, hơn nữa còn có linh tính. Trước đây vô tình đi ngang qua tôi mới phát hiện ra, cho nên mới nghĩ nếu cậu mua không được thì để tôi ra đây xin ông già kia một ít.”
“Đã biết là có sẵn thì còn tìm mua làm cái gì, hả! Lão Bạch…anh cứ chờ đó…cứ chờ đó!!!” Run run cầm cái chén trong tay, tôi rít lên.
Bạch Dực chớp chớp mắt thản nhiên nói: “Vì nếu cậu mua đâu đó được thì chỉ mất 50 đồng, cậu vốn là người tiết kiệm mà. Đừng quên, mấy thứ này đều phải cưa đôi tiền!”
Tôi ngớ người, nhìn Bạch Dực cười toe toét bước phía trước, đột nhiên có một loại khao khát muốn cầm chén đổ ào lên đầu anh ta[2], mà nguyên nhân duy nhất ngăn tôi không ra tay… chỉ là vì cái chén này vét của tôi tới 50 đồng!!!
Đem hết mấy thứ này về nhà xong, Bạch Dực bắt đầu lục đục làm gì đó không biết, tôi ngồi bên cạnh anh ta háo hức mở to mắt nhìn, anh ta đột nhiên dừng lại nhìn tôi: “Đến giờ ăn rồi đó, đi xuống dưới nhà mua hai tô mì lên đi, nhớ cay cay một chút.”
Tôi ngẩn ra, nhưng cũng cho là phải, nên gật đầu xuống lầu mua mì, nhưng khi đóng cửa vẫn không kìm được hiếu kỳ mà liếc vào phòng thêm một lần. Chỉ thấy Bạch Dực lôi dưới gầm giường anh ta ra hai cái hộp, nhìn chúng hồi lâu như đang cân nhắc cái gì. Tôi có ý chờ xem anh ta sẽ làm gì với hai cái hộp thì đã nghe giọng Bạch Dực vang lên: “Nhìn cái gì mà nhìn, nhanh nhanh xuống mua mì đi. Không thấy đói bụng à?”
Tôi vội vàng đóng cửa xuống lầu, chột dạ nghĩ sao anh ta biết tôi đang lén nhìn nhỉ? Chẳng lẽ sau gáy có mắt sao? Tôi lắc lắc đầu, mặc kệ, dù sao đến lúc này cũng chỉ còn biết trông chờ vào anh ta, bằng không những chuyện sau này thật không dám tưởng tượng tới nữa. Tôi nhanh chân xuống nhà dưới mua hai tô mì tương ớt, còn đặc biệt bảo người bán hàng cho nhiều ớt một chút. Có lẽ ông bán hàng là người Tứ Xuyên, vừa nghe nói “nhiều ớt” là lập tức dốc thẳng nửa lọ tương ớt vào hai cái tô. Tôi toát mồ hôi nhìn hai tô mì đỏ lòm, chưa ăn đã cảm thấy dạ dày âm ỉ đau.
Khi quay về phòng, Bạch Dực dường như đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi. Trên bàn bày hai cái hộp hình chữ nhật đứng bằng gỗ màu nâu hồng, khắc hoa văn tinh xảo, nhưng mà… nhưng mà… nhìn sao cũng giống hệt như hai cái hũ đựng tro cốt! Mà trên mặt còn dán hai tấm hình của tôi và Bạch Dực! Hai tấm hình này được chụp trong dịp làm thẻ chứng nhận công tác, tôi thường hay chặn nó dưới tấm kính lót bàn. Không ngờ lại bị Bạch Dực đem ra… dán lên hũ đựng cốt! Thật là quá lắm!
Trong tấm ảnh chụp, tôi đang nở một nụ cười cứng ngắc, đành chịu, tôi vốn không phải một người ăn ảnh. Lúc bình thường không thấy gì, nhưng chỉ cần tấm ảnh bị đặt vào một vị trí khác thường thế này, lập tức cho tôi một cảm giác lạnh toát sống lưng. Không ngờ có ngày lại tận mắt nhìn thấy ảnh mình trên hũ đựng cốt… Mà kinh dị nhất là Bạch Dực cũng không ngần ngại gì dán ngay ảnh chính mình lên cái hũ còn lại.
Tôi kích động chỉ vào hai cái hũ lắp bắp hỏi: “Lão Bạch, đây là ý gì thế? Chúng ta đang sống sờ sờ ra đây mà anh đã lo hậu sự rồi là sao?!”
Bạch Dực chỉ liếc tôi một cái rồi không thèm trả lời, thản nhiên đứng dậy lấy hai đôi đũa tới đưa cho tôi một đôi, sau đó ngồi xuống ăn mì: “Ăn trước đi, sắp tới giờ rồi. Ráng ăn cho hết, hôm nay là cơ hội duy nhất có thể tự do vào chợ quỷ đấy.”
Tôi quay đi không nhìn hai cái hũ nữa, lúc này mới có can đảm bưng tô lên bắt đầu ăn, bởi vì thực sự cái cảnh mình nhìn chằm chằm vào hũ đựng cốt của mình mà ăn mì thì có lẽ trên đời này chỉ có hai chúng tôi mới được trải nghiệm mà thôi. Tôi ăn tô mì của mình rất nhanh, vì nó quá cay nên khi ăn xong thì đầu lưỡi của tôi cũng đã tê rần. Bạch Dực cũng ăn rất nhanh, khéo léo vớt hết mì, để tô sang một bên, sau đó nói với tôi: “Mọi thứ tôi đã chuẩn bị xong cả rồi, bây giờ cậu phải dẫn tôi tới cái ngõ hẻm nơi cậu đã gặp Tá Thọ bà ấy, trên đường đi tôi sẽ chỉ cho cậu biết phải làm gì.” Nói xong anh ta đưa cho tôi hũ đựng cốt “của tôi” cùng một tấm vải đen. Còn anh ta thì tự cầm cái hũ của mình, bọc trong một tấm vải đen, lưng đeo ba lô. Tôi cũng học theo anh ta bọc cái hũ trong tay mình vào tấm vải đen nọ, sau đó ôm chắc nó trong tay cùng Bạch Dực ra khỏi nhà.
Trời đã hoàn toàn tối đen lại, chứng tỏ lúc này đã khá khuya. Trên đường chỉ còn vài người lác đác bước ra từ những nhà tắm công cộng, vì thế hai chúng tôi, mỗi người cầm trong tay một tấm vải đen bọc hũ đựng cốt, trở thành trung tâm thu hút sự chú ý tò mò của người đi đường.
Tôi dẫn anh ta tới con hẻm lần trước, lúc này trông nó cực kỳ quạnh quẽ, vì nơi này vốn dơ bẩn nên bình thường cũng không có ai đặt chân vào. Trong không khí ngập ngụa một mùi hôi khó chịu. Tôi cau cau mũi, chỉ vào con đường nhỏ trước mặt ra hiệu cho Bạch Dực là ở đây.
Ánh trăng tròn còn sáng hơn cả những ngọn đèn đường chớp tắt xung quanh, soi rọi con hẻm nhỏ. Bạch Dực không tiến tới, chỉ chằm chằm nhìn vào con đường hẹp dài trước mặt. Tôi tự nhiên cảm thấy do dự, không biết anh ta sẽ làm cách nào để vào được quỷ thành, chợt anh ta quay lại nhìn tôi mỉm cười: “An Tung, yên tâm, không sao đâu. Bây giờ tôi sẽ nói cho cậu biết cách đi, cậu theo sát tôi, tuyệt đối không được buông cái hũ trong tay xuống, cho dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, cho dù như thế nào đi nữa, cái hũ này cũng không được rời tay. Hiểu chưa?”
Tôi bất an gật đầu, Bạch Dực hiếm khi nào lại nghiêm túc tới mức này. Anh ta lấy ra hai ngọn nến châm lên, một đặt bên chân tôi, một đặt dưới chân chính mình, sau đó dùng máu chó vẽ một vòng tròn xung quanh hai ngọn nến. Ngọn nến liên tục lập lòe lay động, ngọn lửa xanh dài mấy lần bị gió liếm như sắp tắt. Một tầng khói mỏng xám trắng nhẹ nhàng uốn lượn xung quanh hai chúng tôi. Tôi mua loại nến phòng được gió, nên chỉ cần không phải là phong ba bão táp thì nến sẽ không tắt dễ dàng.
Còn lại hai cây nến, Bạch Dực cũng đốt lên, sau đó nhét một cây vào tay tôi. Tôi nhìn ngọn nến trong tay mình, sau đó lại ngơ ngác nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta nghiêng nghiêng cây nến trên nắp hũ đựng cốt cho vài giọt sáp tan chảy rơi xuống, sau đó cắm cây nến lên đỉnh hũ, tôi cũng cứ thế ngơ ngác làm theo.
Bạch Dực nhìn tôi gật đầu, sau đó dùng một ngón tay đặt lên môi, ý bảo không được nói, lại lấy hai cái chuông ra, một treo vào thắt lưng mình, một treo cho tôi, rồi lầm bầm gì đó trong miệng mà bắt đầu tiến về phía trước. Những ngọn gió sắc lạnh mùa đông thổi qua con hẻm nhỏ tối tăm cuốn theo những chiếc lá vàng rơi trên đất, phát ra những âm thanh sột soạt.
Tôi theo sau lưng Bạch Dực, nhìn anh ta dùng ngọn lửa của cây nến lần lượt đốt từng tờ vàng mã, vừa đốt vừa lẩm bẩm gì đó không rõ. Con hẻm này dường như còn thông với những con hẻm khác nữa, vì chúng tôi cứ thế đi hết con hẻm này tới con hẻm khác. Khói xám tỏa ra từ những tờ vàng mã bị đốt không ngừng lượn lờ xung quanh, cảnh vật xung quanh cũng như nhòe đi, mùi ẩm thấp gay mũi của vàng mã như muốn đè bẹp cả mùi rác rến xung quanh. Lúc này trong con ngõ nhỏ chỉ có tiếng bước chân của tôi và Bạch Dực cộng với tiếng chuông nho nhỏ lanh canh bên hông, còn lại đều lờ mờ thành một màu đen đen xam xám, đến cuối cùng thì tôi cũng chẳng còn phân biệt được liệu đây có phải là con hẻm gần trường học hay không nữa, chì biết không ngừng tiến lên phía trước.
Chúng tôi giữ im lặng hoàn toàn, ánh trăng sáng lúc nãy không biết tự bao giờ đã bị che khuất gữa tầng tầng mây đen kịt, bốn phía chỉ còn ánh sáng leo lét yếu ớt từ hai ngọn nến của tôi và Bạch Dực mà thôi. Trong gió, ngọn lửa chập chờn lúc mạnh lúc yếu, rọi hai cái bóng vặn vẹo lên bờ tường xung quanh. Bóng tối như đã nuốt chửng toàn bộ hơi ấm của mặt đất, tôi chỉ cảm thấy quanh mình ớn lạnh từng hồi, tô mì tương ớt cay nóng bỏng lưỡi lúc nãy đã biến mất đi đâu không rõ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.