Percy Jackson Tập 5: Vị Thần Cuối Cùng

Chương 3: Cận kề cái chết




Nếu bạn muốn trở nên nổi tiếng ở Trại Con Lai, không nên quay trở về từ nhiệm vụ cùng với những tin xấu.
Tin tức tôi về đến trại lan đi nhanh chóng ngay khi tôi bước lên từ đại dương. Bãi biển của chúng tôi nằm ở Bờ Bắc của Long Island, và nó bị làm phép nên phần lớn mọi người thường không thể nhìn thấy. Không một người thường nào xuất hiện ở bãi biển trừ khi họ là các á thần hay các thần hoặc là những người đưa bánh pizza thật sự bị lạc đường. (Chuyện đó đã xảy ra – nhưng đó là một câu chuyện khác.)
Dù sao thì, chiều hôm đó, nhiệm vụ canh chừng thuộc về Connor Stoll của nhà thần Hermes. Khi nhìn thấy tôi, cậu ta phấn khích đến nỗi ngã từ cây xuống. Cậu ta thổi tù và bằng ốc xà cừ báo tin cho trại rồi chạy đến chào đón tôi.
Kiểu cười mỉm rất hóm của Connor hợp với khiếu hài hước hóm hỉnh của cậu ta. Cậu ta là một anh chàng khá dễ thương, nhưng bạn nên luôn giữ chặt ví mình khi cậu ta ở gần và không được, trong bất cứ tình huống nào, tạo cơ hội cho cậu ta đến gần kem cạo râu trừ phi bạn muốn tìm thấy túi ngủ của mình chứa đầy nó. Cậu ta có mái tóc màu nâu quăn tít và thấp hơn một chút so với anh trai Travis của mình, đó cũng là cách duy nhất tôi có thể phân biệt được hai người họ. Cả hai đều chẳng giống kẻ thù cũ Luke của tôi tẹo nào, thật khó tin khi họ đều là các cậu con trai của thần Hermes.
“Percy!” cậu ta hét lớn. “Chuyện gì đã xảy ra thế? Anh Beckendorf đâu?”
Khi cậu ta nhìn thấy vẻ mặt của tôi, nụ cười trên mặt cậu ta dần biến mất. “Ôi, không. Tội nghiệp Silena. Thần Zeus thiêng liêng, khi cô ấy mà biết chuyện thì...”
Hai đứa tôi cùng nhau leo qua các đụn cát. Vài trăm mét phía trước, mọi người đang di chuyển về phía chúng tôi, mỉm cười và đầy phấn khích. Percy đã quay lại, họ chắc chắn đang nghĩ như thế. Cậu ấy đã giành được chiến thắng! Thể nào cậu ấy cũng mang quà lưu niệm về!
Tôi ngừng lại ở khu nhà ăn và chờ họ. Tôi chẳng có tâm trạng nào để mà vội vã chạy đến đó để nói cho họ nghe tôi là một kẻ tồi tệ thế nào.
Tôi nhìn chằm chằm khắp thung lũng và cố nhớ Trại Con Lai trông như thế nào đầu tiên tôi nhìn thấy nó. Ngày hôm đó như thể đã cách đây hàng tỷ tỷ năm vậy.
Từ khu vực nhà ăn, bạn có thể thấy được toàn bộ mọi thứ. Những ngọn đồi vây quanh thung lũng. Trên ngọn đồi cao nhất, Đồi Con Lai, cây thông Thalia đứng sừng sững với Bộ Lông Cừu Vàng được treo trên các cành của nó, có sức mạnh thần bí bảo vệ trại khỏi các kẻ thù. Con rồng làm nhiệm vụ bảo vệ Peleus quá lớn đến nỗi giờ đứng ở đây tôi cũng có thể nhìn thấy nó – cuộn mình quanh thân cây, thở ra khói khi nó ngáy.
Ở phía bên phải tôi là các cánh rừng trải dài. Bên trái, hồ xuồng sáng lấp lánh và bức tường leo nóng rực vì dung nham đang chảy xuống từ vách tường. Mười hai ngôi nhà – mỗi một ngôi nhà thuộc về một vị thần trên đỉnh Olympus – tạo thành hình móng ngựa bao quanh khoảnh sân chung. Xa hơn về hướng nam là các ruộng dâu tây, kho vũ khí và căn Nhà Lớn cao bốn tầng được sơn màu xanh da trời và chong chóng gió đại bàng bằng đồng.
Ở mặt nào đó, trại không có gì thay đổi. Nhưng bạn không thể nhìn thấy chiến tranh bằng cách nhìn vào các công trình xây dựng hay các cánh đồng. Bạn có thể nhìn thấy nó trên khuôn mặt của các á thần và các thần rừng cùng các nữ thần cây đang đi lên đồi.
Chẳng có nhiều trại viên so với bốn mùa hè trước. Một số đã rời đi và không bao giờ quay lại. Có người hy sinh trong các trận chiến. Những người khác – chúng tôi cố không nói về họ – đã về phe với kẻ thù.
Những người vẫn còn ở trại đều là những người dày dạn kinh nghiệm và mệt mỏi. Hồi này trong trại ít hẳn tiếng cười. Nhà thần Hermes cũng bày không quá nhiều trò chơi khăm. Cũng khó mà thưởng thức những trò chơi khăm vui vẻ khi toàn bộ cuộc đời bạn cảm thấy như gần kết thúc.
Bác Chiron là người đầu tiên phi nhanh lên khu nhà ăn, chuyện đó thật dễ dàng với bác ấy vì bác ấy là một con ngựa trắng từ thắt lưng trở xuống. Bộ râu của bác ấy mọc tua tủa qua một mùa hè. Bác ấy mặc một chiếc áo phông màu xanh lục với dòng chữ CHIẾC XE KHÁC CỦA TÔI LÀ MỘT CON NHN MÃ và một cái cung được đeo trên lưng bác ấy.
“Percy!” bác ấy nói. “Tạ ơn các thần. Nhưng còn...”
Annabeth chạy vào ngay sau bác ấy, và tôi phải thừa nhận rằng trái tim tôi đã thực hiện một cú chạy sức nhỏ trong lồng ngực khi nhìn thấy cô ấy. Chẳng phải là do cô ấy cố tỏ ra chải chuốt. Gần đây chúng tôi phải thực hiện quá nhiều nhiệm vụ chiến đấu đến nỗi cô ấy hiếm khi chải mái tóc vàng uốn cong. Cô ấy cũng không buồn quan tâm đến trang phục đang mặc – thường là cùng chiếc áo phông màu cam cũ của trại và quần jeans, đôi khi là bộ áo giáp bằng đồng. Đôi mắt cô ấy có màu xám bão. Phần lớn thời gian, chúng tôi không thể hoàn tất một cuộc hội thoại mà không cố bóp cổ lẫn nhau. Tuy nhiên, chỉ nhìn thấy cô ấy thôi cũng đã khiến đầu óc tôi đờ đẫn đi. Hè năm ngoái, trước khi Luke biến thành Kronos và mọi thứ trở nên xấu đi, đã có đôi lần tôi chợt nghĩ có thể... ừm, chúng tôi có thể vượt qua được giai đoạn “bóp cổ lẫn nhau” đó.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Cô ấy chộp lấy cánh tay tôi. “Có phải Luke...”
“Con tàu nổ tung,” tôi nói. “Anh ta vẫn không bị tiêu diệt. Tớ không biết...”
Silena Beauregard đẩy đám đông bước lên. Tóc cô ấy đã không được chải và cô ấy thậm chí còn không trang điểm, điều đó chẳng giống Silena chút nào.
“Charlie đâu?” cô ấy hỏi, nhìn quanh quất như thể anh ấy đang trốn ở đâu đấy.
Tôi nhìn bác Chiron cầu cứu.
Người nhân mã già hắng giọng. “Silena, cháu yêu, chúng ta sẽ nói về chuyện đó ở Nhà Lớn...”
“Không,” cô ấy lẩm bẩm. “Không. Không.”
Cô ấy bật khóc, và tất cả chúng tôi đứng yên, sững sờ không thốt lên lời. Chúng tôi đã mất rất nhiều người trong cả mùa hè, nhưng đây là tổn thất lớn nhất. Với cái chết của anh Beckendorf, mọi người đều có cảm giác như thể ai đó đã cướp đi chỗ dựa tin cậy của cả trại vậy.
Cuối cùng, Clarisse từ nhà thần Ares bước lên trước. Cô ta vòng tay ôm Silena. Tình bạn của họ lạ lùng nhất trần đời: con gái của thần chiến tranh và con gái của nữ thần tình yêu. Nhưng kể từ khi Silena đưa cho Clarisse lời khuyên về người bạn trai đầu tiên của cô ta vào hè năm ngoái, Clarisse đã quyết định cô ta sẽ là vệ sĩ riêng của Silena.
Clarisse đang mặc bộ áo giáp trận màu đỏ tươi, mái tóc nâu ẩn dưới một chiếc khăn rằn. Cô tao con và lực lưỡng như một cầu thủ bóng bầu dục với vẻ mặt cáu kỉnh thường trực, nhưng cô ta thật nhẹ nhàng khi nói chuyện với Silena.
“Đi nào, cô gái,” cô ta nói. “Chúng ta đến Nhà Lớn nhé. Tớ sẽ pha cho cậu một ít sôcôla nóng.”
Mọi người quay người lại, thơ thẩn từng hai ba người một, quay về lại khu nhà ở. Giờ thì chẳng có ai hào hứng gặp tôi nữa. Không ai muốn nghe về con tàu bị nổ tung đó nữa.
Chỉ Annabeth và bác Chiron còn ở lại.
Annabeth lau nước mắt vương trên má. “Tớ mừng là cậu không chết, Óc Tảo Biển.”
“Cảm ơn,” tôi nói. “Tớ cũng vậy.”
Bác Chiron đặt tay lên vai tôi. “Bác chắc cháu đã làm mọi điều cháu có thể, Percy. Cháu sẽ nói cho chúng ta nghe về chuyện gì đã xảy ra chứ?”
Tôi không muốn lại trải qua chuyện đó lần nữa, nhưng tôi đã kể cho họ toàn bộ câu chuyện, gồm cả giấc mơ về các thần Titan. Tôi bỏ qua chi tiết về Nico. Nico đã bắt tôi hứa không được hé môi với ai về kế hoạch của cậu bé cho đến khi tôi đưa ra quyết định. Ngoài ra kế hoạch ấy quá kinh khiếp vì thế tôi không phiền gì trong việc giữ bí mật.
Bác Chiron đăm đăm nhìn xuống thung lũng. “Chúng ta phải triệu tập hội đồng chiến tranh ngay lập tức, để thảo luận về chuyện gián điệp này, và cả những vấn đề khác nữa.”
“Thần Poseidon đề cập đến một sự đe dọa khác,” tôi nói thêm, “thứ gì đó thậm chí còn lớn cả con tàu Công chúa Andromeda. Cháu nghĩ nó có thể là thử thách mà thần Titan đã đề cập đến trong giấc mơ của cháu.”
Bác Chiron và Annabeth nhìn nhau, như thể họ biết được điều gì tôi không biết. Tôi ghét họ làm như thế.
“Chúng ta cũng sẽ thảo luận về điều đó,” bác Chiron hứa.
“Thêm một điều nữa.” Tôi hít sâu. “Khi cháu nói chuyện với cha cháu, ông nói cháu nói với bác rằng đã đến lúc. Cháu cần biết toàn bộ lời tiên tri.”
ác Chiron rũ xuống, nhưng bác ấy không hề ngạc nhiên. “Bác đã sợ hãi về ngày hôm nay. Tốt thôi. Annabeth, chúng ta sẽ cho Percy biết sự thật – tất cả sự thật. Cả hai đứa đi lên gác xép đi.”
Tôi đã ba lần leo lên gác xép của Nhà Lớn trước đây, cả ba lần đó mang lại nhiều điều hơn cả tôi mong đợi.
Một cái thang được dựng lên từ đỉnh của cầu thang gác. Tôi phân vân không biết bác Chiron lên đó bằng cách nào, khi có cơ thể nửa người nửa ngựa như thế, nhưng bác ấy không định làm thế.
“Cháu biết nó ở đâu mà,” bác ấy bảo Annabeth. “Cháu mang nó xuống nhé.”
Annabeth gật đầu. “Đi thôi, Percy.”
Bên ngoài, hoàng hôn đang dần buông xuống. Vì thế gác xép thậm chí còn tối và sởn gai ốc hơn mọi khi. Các chiến lợi phẩm của các anh hùng cũ ở khắp nơi: những cái khiên mẻ, đầu của đủ loại quái vật được ngâm trong các lọ, một đôi xúc xắc mờ xỉn nằm trên một tấm bản đồng với dòng chữ: Được trộm từ chiếc Honda Civic của Chrysaor, bởi Gus, con trai của thần Hermes, năm 1988.
Tôi cầm lên một thanh kiếm đồng bị uốn cong thành hình chữ M. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các vết màu xanh lục trên lưỡi kiếm, đó là chất độc ma thuật đã được dùng để bọc bên ngoài lưỡi kiếm. Thẻ buộc thân kiếm ghi hè năm ngoái. Nó được viết: Thanh mã tấu của Kampê, đã bị tiêu diệt ở Cuộc chiến chốn Mê Cung.
“Cậu có nhớ anh Briares đã ném những tảng đá đó không?” tôi hỏi.
Annabeth cười miễn cưỡng. “Còn Grover thì tạo ra Sự Hoảng sợ?”
Mắt chúng tôi giao nhau. Tôi nghĩ về một khoảng thời gian khác vào mùa hè năm ngoái, bên dưới núi St. Helens, vì Annabeth nghĩ rằng tôi sẽ chết, cô ấy đã hôn tôi.
Cô ấy đằng hắng và nhìn ra chỗ khác. “Lời tiên tri.”
“Đúng rồi.” Tôi đặt thanh mã tấu xuống. “Lời tiên tri.”
Chúng tôi bước về phía cửa sổ. Ngồi trên chiếc ghế đẩu ba chân là Oracle – một xác ướp teo tóp của một phụ nữ trong bộ áo đầm nhuộm màu oang lổ. Các túm tóc đen của bà ta dính lủng lẳng vào xương sọ. Hai con mắt đờ đẫn nhìn chòng chọc trên khuôn mặt nhăn nhúm. Chỉ nhìn thấy bà ta thôi cũng khiến tôi sởn cả gai ốc.
Nếu bạn muốn rời trại trong mùa hè, thường thì bạn phải đến đây để có được một cuộc tìm kiếm. Mùa hè này, điều luật đó đã bị quẳng đi tận đẩu tận đâu. Các trại viên rời trại bất cứ khi nào khi thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Chúng tôi không có lựa chọn nếu muốn ngăn Kronos lại.
Dù thế, tôi vẫn nhớ cực rõ về màn sương màu xanh lục kỳ lạ – linh hồn của Oracle – sống bên trong xác ướp. Giờ bà ta giống một cái xác, nhưng bất cứ khi nào bà ta nói lời tiên tri, bà ta sẽ di chuyển. Đôi khi sương phun ra từ miệng bà ta và tạo thành các hình thù quái dị. Có lần, bà ta rời gác xép, đi vào rừng để truyền thông điệp. Tôi không chắc bà ta sẽ làm gì với “Lời Đại Tiên Tri”. Tôi hơi mong bà ta sẽ bắt đầu nhảy điệu clacket hay làm điều gì đó.
Nhưng bà ta chỉ ngồi đó như thể bà ta đã chết – mà đúng là bà ta đã chết.
“Tớ không bao giờ hiểu được điều này,” tôi thì thào.
“Điều gì?”
“Tại sao nó lại là một xác ướp.”
“Percy này, bà ta vốn không phải là xác ướp. Trong hàng ngàn năm, linh hồn của Oracle đã sống trong cơ thể một thiếu nữ đồng trinh xinh đẹp. Linh hồn sẽ được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Bác Chiron nói với tớ rằng bà ta giống như thế năm mươi năm trước đây.” Annabeth chỉ về phía xác ướp. “Nhưng bà ta là người cuối cùng.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Annabeth rõ ràng định nói điều gì đó nhưng hình như đã đổi ý. “Hãy làm xong việc của chúng ta và ra khỏi đây.”
Tôi sợ hãi nhìn khuôn mặt nhăn nhúm của Oracle. “Vậy giờ phải làm sao?”
Annabeth đến bên xác ướp và ngửa hai lòng bàn tay cô ấy ra. “Ôi Oracle, thời khắc đã điểm. Tôi muốn có Lời Đại Tiên Tri.”
Tôi cố hết sức, nhưng xác ướp đã không di chuyển. Thay vào đó, Annabeth tiến đến và tháo một trong các hạt ở chiếc vòng cổ của bà ta. Tôi chưa bao giờ quá chú ý đến đồ trang sức của bà ta trước đây. Tôi chỉ nghĩ nó chỉ là chuỗi hạt tình yêu và đại loại như thế. Nhưng khi Annabeth quay về phía tôi, cô ấy đang cầm trong tay một túi da nhỏ – như một túi thuốc của người da đỏ với một sợi dây thừng nhỏ được kết với những chiếc lông vũ. Cô ấy mở túi và lấy ra một cuộn giấy da chẳng lớn hơn bao nhiêu so với ngón tay út của cô ấy.
“Không phải chứ,” tôi nói. “Ý cậu là trong cả mấy năm nay, tớ hỏi về lời tiên tri ngớ ngẩn này, và nó nằm ở đây quanh cổ của bà ta ư?”
“Chưa tới thời điểm thôi,” Annabeth nói. “Hãy tin tớ, Percy, tớ đã đọc được nó khi tớ được mười tuổi, và đến giờ tớ vẫn còn gặp ác mộng vì nó.”
“Tuyệt nhỉ,” tôi nói. “Giờ tớ có thể đọc nó chưa?”
“Dưới lầu, ở hội đồng chiến tranh,” Annabeth nói. “Không phải trước... cậu biết mà.”
Tôi nhìn vào cặp mắt đờ đẫn của Oracle, và tôi quyết định không cãi lại cô ấy. Chúng tôi đi xuống lầu để gia nhập với mọi người. Vào lúc đó tôi đã không biết, nhưng đó sẽ là lần cuối cùng tôi đến thăm căn gác xép.
Những người đứng đầu các nhà đã tập trung quanh bàn đánh bóng bàn. Đừng hỏi tôi về lý do, nhưng phòng giải trí đã trở thành cơ quan chỉ huy không chính thức của trại dành cho hội đồng chiến tranh. Nhưng khi Annabeth, bác Chiron và tôi bước vào, nó giống với cuộc thi “hét với nhau” hơn.
Clarisse vẫn trong trạng thái vũ trang đầy đủ. Cây giáo điện được cột phía sau lưng cô ta (thực ra đó là cây giáo điện thứ hai, vì tôi đã bẻ gãy cây thứ nhất. Cô ta đã gọi nó cây giáo là ‘Bé Thương’. Sau lưng cô ta, mọi người lại gọi nó là ‘Bé Què’.) Chiếc nón sắt hình lợn lòi ở bên dưới một cánh tay và một con dao được dắt ngang thắt lưng.
Cô ta đang hét vào mặt Michael Yew, người đứng đầu mới của nhà thần Apollo, cậu ta trông khá buồn cười vì Clarisse cao hơn cậu ta đến chín mươi centimet. Michael đã tiếp quản nhà thần Apollo sau khi Lee Fletcher hy sinh trong trận chiến vào mùa hè năm ngoái. Michael cao một mét ba bảy cùng sáu mươi centimet dáng điệu. Cậu ấy gợi cho tôi về hình ảnh của con chồn sương, với một cái mũi nhọn hoắt và venhăn nhó. Chắc có lẽ bởi Michael đã cau có quá nhiều hoặc vì cậu ta đã dành phần lớn thời gian nhìn xuống đầu nhọn của mũi tên.
“Đây là của cải của chúng ta!” cậu ta hét lên, kiễng chân lên để có thể nhìn được vào mặt Clarisse. “Nếu cô không thích nó, cô có thể hôn ống tên của tôi!”
Đang ngồi quanh bàn, mọi người đang cố để không cười phá lên – anh em nhà Stoll, Pollux nhà thần Dionysus, Katie Gardner đến từ nhà nữ thần Demeter. Ngay cả Jake Mason, người vừa được vội vàng chỉ định làm người đứng đầu nhà thần Hephaestus, cũng nở một nụ cười yếu ớt. Chỉ duy nhất Silena Beauregard không chú ý đến. Cô ngồi bên cạnh Clarisse và nhìn lơ đãng vào tấm lưới bóng bàn. Hai mắt cô đỏ và sưng húp. Một tách sôcôla nóng không được đụng đến được đặt trước mặt. Dường như không công bằng lắm khi cô ấy buộc phải có mặt ở đây. Tôi không thể tin là Clarisse và Michael lại ở trước mặt cô ấy, tranh cãi về điều ngớ ngẩn như của cải trong khi cô vừa mới mất anh Beckendorf.
“THÔI ĐI!” tôi hét lớn. “Hai người đang làm gì thế?”
Clarisse trừng mắt nhìn tôi. “Nói Michael đừng trở thành gã ích kỷ như thế.”
“Ồ, điều đó thật chính xác, là do cô mà thôi,” Michael vặc lại.
“Lý do duy nhất tôi có mặt ở đây là để cổ vũ Silena!” Clarisse gào lớn. “Nếu không, tôi sẽ quay về lại nhà của mình.”
“Các cậu đang nói về cái gì?” tôi gặng hỏi.
Pollux đằng hắng. “Clarisse không chịu nói chuyện với bất cứ người nào trong chúng ta trong ba ngày trước, cho đến khi cô ấy, ừm, vấn đề được giải quyết.”
“Đó là ba ngày tuyệt vời,” Travis Stoll nói kháy.
“Vấn đề gì?” tôi hỏi.
Clarisse quay sang bác Chiron. “Bác là người chịu trách nhiệm, đúng không? Vậy nhà bọn cháu có thể có được điều bọn cháu muốn hay không?”
Bác Chiron gõ gõ móng của mình. “Cháu yêu, như ta đã giải thích, Michael đã đúng. Nhà thần Apollo có lẽ là người sử dụng phù hợp nhất. Ngoài ra, chúng ta có các vấn đề quan trọng hơn...”
“Chắc chắn vậy rồi,” Clarisse bật lại. “Luôn có các điều quan trọng hơn so với những gì nhà thần Ares cần. Nhà chúng cháu chỉ được cho là xuất hiện và chiến đấu khi bác cần chúng cháu và không được than phiền!”
“Điều đó sẽ mới tuyệt làm sao,” Connor Stoll lẩm bẩm.
Clarisse nắm chặt con dao của mình. “Có lẽ cháu sẽ yêu cầu Ngài D...”
“Như cháu biết,” bác Chiron cắt ngang, giọng bác ấy giờ hơi cáu giận, “giám đốc của chúng ta, thần Dionysus đang bận với chiến tranh. Ông ấy không thể bị làm phiền với chuyện này.”
“Cháu hiểu,” Clarisse nói. “Và các người đứng đầu các nhà thì sao? Có bất cứ ai trong số các người về phe với tôi không?”
Giờ thì chẳng có ai cười cợt nữa. Tất cả đều tránh né cái nhìn của Clarisse.
“Tuyệt,” Clarisse quay sang Silena. “Tớ xin lỗi. Tớ không cố ý làm điều này khi cậu vừa mới mất đi... dù sao đi nữa, tớ xin lỗi. Chỉ mỗi cậu thôi. Không với bất cứ người nào khác.”
Silena dường như không nói một lời.
Clarisse quẳng con dao lên bàn bóng bàn. “Tất cả các cậu có thể tham chiến mà không cần có nhà thần Ares. Cho đến khi tôi toại nguyện, không ai trong nhà của tôi động một ngón tay giúp đâu. Chết vui vẻ nhé.”
Tất cả người đứng đầu quá sửng sốt để nói được bất cứ điều gì khi Clarisse xồng xộc lao ra khỏi phòng.
Mãi sau, Michael Yew nói, “Thật là một sự giải thoát.”
“Cậu không đùa chứ?” Katie Gardner phản đối. “Điều này là một thảm họa!”
“Cô ta không làm nghiêm trọng hóa mọi chuyện,” Travis nói. “Có phải không?”
Bác Chiron thở dài. “Lòng kiêu hãnh của con bé đang bị tổn thương. Cuối cùng rồi con bé cũng sẽ bình tâm lại thôi.” Nhưng bác ấy dường như cũng không tin chắc lắm
Tôi muốn hỏi cái quái gì khiến Clarisse nổi điên lên như thế, nhưng khi tôi nhìn Annabeth, cô ấy tròn miệng bảo, Tớ sẽ nói cho cậu sau.
“Giờ,” bác Chiron nói tiếp, “những người đứng đầu các nhà, xin vui lòng. Percy mang đến thứ mà bác nghĩ mọi người nên lắng nghe. Percy – lời đại tiên tri.”
Annabeth đưa tôi cuộn giấy da. Tôi có cảm giác nó khô và cũ kỹ, những ngón tay tôi lóng ngóng tháo dây buộc. Tôi bung cuộn giấy ra, cố không làm rách giấy, và bắt đầu đọc:
“Con lai của những chú chó già nhất...”
“Ờ, Percy này?” Annabeth cắt ngang lời tôi. “Đó là các thần. Không phải những chú chó.”
“Ồ, đúng vậy,” tôi nói. Mắc phải chứng khó đọc là một đặc trưng của một á thần, nhưng đôi khi tôi thực sự ghét nó. Tôi càng sợ hãi bao nhiêu, thì kết quả cho việc đọc của tôi lại tệ đến bấy nhiêu. “Con lai của các vị thần lớn nhất... sẽ được mười sáu tuổi khó có thể xảy ra...”
Tôi ngần ngừ, nhìn xuống dòng tiếp theo. Một cảm giác lạnh lẽo bắt đầu từ các đầu ngón tay tôi như thể tờ giấy đang bị đóng băng.
“Và nhìn thế giới trong giấc ngủ triền miên,
Linh hồn của người anh hùng, vũ khí bị nguyền rủa sẽ đón lấy.”
Đột nhiên thanh Thủy Triều trở nên nặng hơn trong túi tôi. Vũ khí bị nguyền rủa ư? Bác Chiron trước đây đã nói với tôi rằng thanh Thủy Triều đã mang đến đau thương cho biết bao nhiêu người. Có khả năng thanh kiếm của chính tôi có thể giết chết tôi không? Và làm thế nào mà thế giới lại rơi vào giấc ngủ triền miên, trừ phi điều đó có nghĩa là cái chết?
“Percy,” bác Chiron giục. “Đọc nốt đi cháu.”
Dù miệng như ngậm đầy cát, tôi vẫn cố đọc nốt hai dòng cuối:
“Sự lựa chọn duy nhất sẽ... sẽ kết thúc cuộc đời của cậu ta.
Đỉnh Olympus sẽ truy... truy đuổi...”
“Bảo toàn,” Annabeth dịu dàng nói. “Nó có nghĩa là ‘cứu vớt’.”
“Tớ biết nó có nghĩa là gì,” tôi càu nhàu. “Đỉnh Olympus sẽ bảo toàn hoặc san bằng.”
Căn phòng im phăng phắc. Cuối cùng Connor Stoll lên tiếng, “Đỡ dậy là một từ tốt, đúng không?”
“Không phải đỡ dậy,” Silena nói. Giọng cô trống rỗng, nhưng tôi giật mình khi cuối cùng cũng nghe được cô ấy nói. “S-a-n b-ằ-ng có nghĩa là ‘hủy diệt’.”
“Xóa bỏ,” Annabeth nói. “Tiêu diệt. Biến thành đống đổ nát.”
“Đã hiểu.” Trái tim tôi nặng như chì. “Cám ơn.”
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía tôi. Những cái nhìn lo lắng, thương hại, hay một ít sợ sệt.
Bác Chiron nhắm nghiền mắt như thể bác ấy đang thầm cầu nguyện. Trong hình hài nhân mã, đầu bác ấy gần như chạm phải ngọn đèn trong phòng giải trí. “Giờ cháu đã biết, Percy, tại sao chúng ta nghĩ tốt nhất không nói cho cháu nghe toàn bộ lời tiên tri. Vai cháu đã gánh đủ nặng rồi...”
“Mà không cần nhận ra rằng dù thế nào đi nữa thì cuối cùng mình vẫn phải chết sao?” tôi nói. “Ừm, cháu đã hiểu.”
Bác Chiron buồn rầu nhìn tôi. Bác ấy đã được ba ngàn năm tuổi. Bác ấy đã nhìn thấy cái chết của hàng trăm anh hùng. Bác ấy có thể không thích điều đó, nhưng bác ấy đã quen với việc đó. Bác ấy chắc chắn tốt hơn hết nên làm yên lòng tôi.
“Percy,” Annabeth nói. “Cậu biết các lời tiên tri luôn có hai tầng nghĩa. Nó có thể không hẳn có nghĩa là cậu sẽ chết.”
“Chắc vậy,” tôi nói. “Sự lựa chọn duy nhất sẽ kết thúc cuộc đời của cậu ta. Điều đó có rất nhiều nghĩa, đúng không?”
“Chúng ta có thể ngăn cản điều đó,” Jake Mason gợi ý. “Linh hồn của người anh hùng, vũ khí bị nguyền rủa sẽ đón lấy. Chúng ta có thể tìm vũ khí bị nguyền rủa đó và phá hủy nó. Nghe như thể đó là lưỡi hái vậy, đúng không?”
Tôi đã không nghĩ đến điều đó, nhưng dù nó là thanh Thủy Triều hay lưỡi hái của Kronos cũng không quan trọng. Mặt khác, tôi nghi ngờ về việc chúng tôi có thể ngăn lại lời tiên tri. Lưỡi kiếm được cho là sẽ thu nhận linh hồn của tôi. Theo lệ thường, tôi không thích việc linh hồn tôi bị thu nhận.
“Có lẽ chúng ta nên để cho Percy nghĩ về những lời này,” bác Chiron nói. “Cậu ấy cần thời gian...”
“Không đâu.” Tôi gấp lời tiên tri lại và nhét nó vào túi quần tôi. Tôi cảm thấy ngang ngạnh và giận dữ, mặc dầu tôi không chắc tôi giận dữ với ai. “Cháu không cần thời gian. Nếu cháu chết, cháu sẽ chết. Cháu không thể lo lắng về điều đó, đúng không?”
Hai tay Annabeth hơi run run. Cô ấy tránh ánh mắt tôi.
“Chúng ta tiếp tục thôi,” tôi nói. “Chúng ta còn có các vấn đề khác. Chúng ta có gián điệp.”
Michael Yew cáu kỉnh. “Gián điệp ư?”
Tôi kể cho họ nghe những gì đã xảy ra trên con tàu Công chúa Andromeda: Kronos đã biết trước về chúng tôi sẽ đến như thế nào, Kronos đã cho tôi thấy mặt dây chuyền hình lưỡi hái bằng bạc mà hắn ta sử dụng để liên lạc với ai đó ở trại như thế nào.
Silena lại bật khóc. Annabeth quàng tay ôm lấy vai cô ấy.
“Ừm,” Connor Stoll nói đầy lo lắng, “chúng ta đã hoài nghi có lẽ có gián điệp trong trại trong nhiều năm, đúng không? Ai đó vẫn cứ chuyển thông tin cho Luke – như vị trí của Bộ Lông Cừu Vàng cách đây hai năm. Đó phải là một ai đó biết rõ hắn ta.”
Có thể theo tiềm thức, cậu ta liếc nhìn Annabeth. Cô ấy biết Luke rõ hơn bất cứ ai khác, dĩ nhiên rồi, nhưng Connor nhanh chóng quay mặt đi. “Ừm, ý tớ là, tên gián điệp có thể là bất cứ ai.”
“Đúng.” Katie Gardner nhíu mày nhìn anh em nhà Stoll. Cô không thích họ kể từ khi họ trang trí mái tranh nhà Demeter bằng kẹo sô cô la hình thỏ Phục sinh. “Như một trong số anh em của Luke.”
Cả Travis và Connor bắt đầu tranh cãi với cô
“Ngừng lại đi!” Silena đánh mạnh vào bàn khiến ly sôcôla nóng của cô ấy đổ nghiêng. “Charlie đã chết và... và tất cả các cậu tranh cãi như những đứa trẻ ranh!” Cô ấy cúi đầu xuống và bắt đầu khóc.
Sôcôla nóng chảy nhỏ giọt khỏi bàn bóng bàn. Ai nấy đều hổ thẹn.
“Cô ấy nói đúng,” Mãi sau, Pollux lên tiếng. “Đổ lỗi cho nhau chẳng giúp được gì. Chúng ta cần để ý tìm kiếm sợi dây chuyền bạc có mặt lưỡi hái. Nếu Kronos có một cái, thì tên gián điệp chắc chắn cũng có cái giống thế.”
Michael Yew lẩm bẩm. “Chúng ta cần tìm ra tên gián điệp trước khi lên kế hoạch tiếp theo của chúng ta. Việc cho nổ tung con tàu Công chúa Andromeda sẽ không ngăn được Kronos mãi.”
“Không cần,” bác Chiron nói. “Sự thật là cuộc tấn công tiếp theo của hắn ta đã sẵn sàng.”
Tôi cau có. “Ý bác là ‘lời đe dọa lớn hơn’ mà thần Poseidon đã nhắc đến sao?”
Bác ấy và Annabeth lại nhìn nhau, ra ý: Đã đến lúc. Tôi đã kể là tôi ghét khi họ làm thế chưa?
“Percy,” bác Chiron nói, “chúng ta không muốn kể cho cháu cho đến khi cháu quay về trại. Cháu cần có một kỳ nghỉ với những người... bạn bình thường của cháu.”
Annabeth đỏ mặt. Tôi chợt nhận ra rằng cô ấy biết tôi đi chơi cùng với Rachel, và tôi cảm thấy có lỗi. Nhưng rồi tôi cảm thấy giận dữ vì chuyện tôi cảm thấy có lỗi đó. Tôi được phép có bạn ở ngoài trại, không phải sao? Nó chỉ không phải là...
“Hãy kể cho cháu chuyện gì đã xảy ra,” tôi nói.
Bác Chiron lấy một chiếc cốc từ chiếc bàn nhỏ. Bác ấy đổ nước lên trên phiến đá nóng nơi chúng tôi thường làm chảy pho mát nacho. Hơi nước bốc lên dưới ánh đèn neon tạo thành cầu vồng. Bác Chiron lấy một đồng drachma vàng ra khỏi túi, ném nó qua màn sương mù, và thì thầm. “Hỡi Nữ thần cầu vồng Iris, hãy cho chúng tôi xem sự đe dọa.”
Màn sương bắt đầu tỏa sáng. Tôi nhìn thấy hình ảnh quen thuộc của một ngọn núi lửa đang cháy âm ỉ úi St. Helens. Khi tôi nhìn, một bên sườn núi đã nổ tung. Lửa, tro và dung nham tràn ra ngoài. Giọng của phát thanh viên vang lên: ... thậm chí còn lớn hơn đợt phun trào vào năm ngoái, và các nhà địa chất cảnh báo rằng ngọn núi lửa này sẽ vẫn còn tiếp tục phun trào...
Tôi biết rõ về vụ phun trào vào năm ngoái. Chính tôi đã gây ra mà. Nhưng lần phun trào này còn tệ hơn nhiều. Ngọn núi tự phá vỡ chính mình, sự sụp đổ xảy ra ở bên trong nó, và một hình thể khổng lồ trỗi dậy từ khói và dung nham như thể nó đang hiện ra từ một miệng cống. Tôi hy vọng Màn Sương Mù sẽ tránh cho con người khỏi việc nhìn thấy nó một cách rõ ràng, vì những gì tôi nhìn thấy sẽ gây ra bạo động và hoảng loạn cho toàn nước Mỹ.
Gã khổng lồ to lớn hơn bất cứ gã nào tôi đã từng đụng độ. Ngay cả với đôi mắt á thần của tôi cũng không thể nhìn ra hình thể chính xác của nó qua làn bụi tro và lửa kia. Nhưng nó hơi giống người và quá lớn đến nỗi nó có thể sử dụng Tòa nhà Chrysler làm gậy vụt bóng chày. Ngọn núi rung lắc với những tiếng đùng đùng đáng sợ, như thể con quái vật đó đang cười vậy.
“Đó là hắn ta,” tôi nói. “Typhon.”
Tôi thực lòng mong bác Chiron sẽ nói một điều gì đó như, Không phải đâu, đó là anh bạn Leroy to lớn của chúng ta! Anh ta sẽ giúp chúng ta một tay! Nhưng tôi lại không có được cái may mắn đó. Bác lặng lẽ gật đầu. “Tên quái vật đáng sợ nhất trần đời, mối đe dọa ghê gớm duy nhất mà các vị thần từng phải đối mặt. Cuối cùng hắn cũng được giải thoát khỏi ngọn núi đó. Nhưng hình ảnh này là của hai ngày trước. Đây là những gì xảy ra trong hôm nay.”
Bác Chiron vẫy tay và hình ảnh thay đổi. Tôi nhìn thấy một đám mây bão đang trôi ngang qua vùng đồng bằng Trung tây. Chớp giật liên hồi. Các dãy lốc xoáy thi nhau tàn phá không chừa thứ gì trên đường đi của chúng: các ngôi nhà cố định và những ngôi nhà di động đều bị hút lên khỏi mặt đất, ném những chiếc xe ra xung quanh như các chiếc xe đồ chơi trong trò Matchbox.
Những cơn lũ khủng khiếp, người phát thanh viên đang nói. Năm bang công bố các khu vực gặp thiên tai khi hệ thống bão kỳ lạ di chuyển về phía đông, tiếp tục tàn phá trên đường đi của nó. Mọi ống kính tập trung vào một cột bão khi nó đang tấn công vào một thành phố nào đó thuộc vùng Trung Tây. Tôi không thể nói đó là thành phố nào. Bên trong cột bão, tôi có thể nhìn thấy tên khổng lồ. Chỉ là những hình ảnh loáng thoáng mờ ảo của hình dáng thực của hắn: một cánh tay đầy khói, một bàn tay có móng vuốt màu đen có kích thước của một khối nhà. Tiếng gầm giận dữ của hắn vang vọng khắp vùng đồng bằng như một vụ nổ hạt nhân. Các hình thể nhỏ hơn khác lao qua các đám mây, vây quanh gã khổng lồ. Tôi nhìn thấy các tia lửa điện, và tôi nhận ra tên khổng lồ đang cố đập bẹp họ. Tôi nheo mắt và nghĩ rằng tôi đã nhìn thấy một cỗ xe ngựa chiến vàng đang bay vào bóng tối. Rồi một loại chim to lớn nào đó – một con cú khổng lồ – đâm bổ vào tấn công gã khổng lồ.
“Đó... đó là các vị thần phải không ạ?” tôi nói.
“Đúng, Percy ạ,” bác Chiron nói. “Kể từ bây giờ họ sẽ chiến đấu với hắn ta trong nhiều ngày, nhằm làm chậm bước tiến của hắn. Nhưng Typhon vẫn đang tiến về trước – hướng đến New York. Đến đỉnh Olympus.”
Tôi suy nghĩ kỹ về điều đó. “Còn bao lâu nữa thì hắn ta sẽ đến được đây?”
“Nếu các thần không cản được hắn ta sao? Có lẽ là năm ngày. Hầu hết các thần trên đỉnh Olympus đều ở đó... trừ cha cháu, người phải chiến đấu trận đấu của chính ông ấy.”
“Nhưng thế ai đang bảo vệ đỉnh Olympus?”
Connor Stoll lắc đầu. “Nếu Typhon đến được New York, việc ai bảo vệ đỉnh Olympus cũng không còn là vấn đề.”
Tôi nghĩ về những từ Kronos đã nói trên tàu: Ta thích nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt mày khi mày biết được cách ta sẽ hủy diệt đỉnh Olympus.
Vậy đây là những gì hắn ta đã nói: cuộc tấn công của Typhon? Nó chắc chắn là đủ làm tôi khiếp sợ. Nhưng Kronos luôn lừa gạt và đánh lạc hướng chúng tôi. Sự việc lần này quá hiển nhiên so với tính cách của hắn ta. Vả lại, trong giấc mơ của tôi, gã Titan vàng đã nói rằng một vài thách thức nữa sẽ xuất hiện, như thể Typhon chỉ là khúc dạo đầu.
“Nó là một cái bẫy,” tôi nói. “Chúng ta phải cảnh báo cho các vị thần. Có chuyện gì đó nữa sắp xảy ra.”
Bác Chiron nghiêm trang nhìn tôi. “Có thứ gì đó còn tệ hơn Typhon không à? Bác hy vọng là không có.
“Chúng ta phải bảo vệ đỉnh Olympus,” tôi khăng khăng. “Kronos đã lên một kế hoạch tấn công khác.”
“Hắn ta đã làm thế rồi,” Travis Stoll nhắc tôi. “Nhưng cậu đã đánh chìm tàu của hắn rồi.”
Mọi người nhìn tôi. Họ muốn nghe tin lành. Họ muốn tin rằng ít nhất tôi cũng sẽ mang đến cho họ một ít hy vọng.
Tôi liếc nhìn Annaneth. Tôi có thể nói là chúng tôi đang cùng nghĩ về một điều: Ngộ nhỡ con tàu Công chúa Andromeda chỉ là một mánh khóe thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Kronos để cho chúng tôi đánh chìm con tàu đó để sau đó chúng tôi mất cảnh giác?
Nhưng tôi sẽ không nói điều đó trước mặt Silena. Bạn trai của cô ấy đã hy sinh chính mình cho nhiệm vụ đó.
“Có thể cậu nói đúng,” tôi nói, mặc dầu tôi chẳng tin bất cứ từ nào.
Tôi cố gắng hình dung mọi việc có thể tệ hơn đến mức nào. Các thần đang ở miền Trung Tây chiến đấu với gã khổng lồ đã suýt đánh bại họ trước đây. Thần Poseidon đang bị bao vây và đang thua trong trận chiến chống lại thần Titan biển Oceanus. Kronos vẫn ở đâu đó ngoài kia. Đỉnh Olympus gần như không được bảo vệ. Các á thần của Trại Con Lai vẫn còn phải xử lý chuyện có một gián điệp lẫn trong số họ.
Ồ, và theo lời tiên tri cổ xưa, tôi sẽ chết khi mười sáu tuổi – điều đó sẽ xảy ra trong năm ngày nữa, trùng với ngày được cho là ngày Typhon tấn công vào New York. Suýt chút nữa tôi quên chi tiết ấy.
“Ừm,” bác Chiron nói, “bác nghĩ thế đã đủ cho một đêm rồi.”
Bác ấy phẩy tay và hơi nước tan biến đi. Trận chiến dữ dội giữa Typhon và các thần cũng biến mất.
“Đó là một cách nói nhẹ đi so với thực tế,” tôi lẩm bẩm.
Và hội đồng chiến tranh ngừng họp.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.