Ngục Thánh

Chương 38: Pháo đài bay




Nhờ Hạ Đông mà nhiều năm qua, sự ảnh hưởng của Thánh Vực đến các lục địa (trừ lục địa Kim Ngân) luôn duy trì ở mức ổn định. Các vị hoàng đế sẽ hối tiếc vì đã mặc ông ta thỏa sức thao thao bất tuyệt trước công chúng. Hạ Đông thực chất chỉ là gã truyền tin, nhưng một bộ phận lớn dân chúng cuồng tín coi ông ta là người truyền đạt ý nguyện thánh thần. Thế nên cái chết của ngài sứ giả như một quả bom mà hễ phát nổ, dư luận thế giới không nghiêng ngả cũng xáo xào. Thánh Vực và Đại Hội Đồng đang làm mọi cách để tháo ngòi quả bom đó. Tất nhiên sẽ có thông báo rằng Hạ Đông đã chết, nhưng lý do phải khác đi. Có thể là trúng gió, trụy tim, mắc bệnh đã lâu hoặc một cơn tai biến quái ác đã đem ngài sứ giả về Tụ Hồn Hải. Như thế tốt hơn là bị ám sát và treo xác lơ lửng trên thanh lưỡi liềm.
Tên vũ công Tiếu đã khiêu chiến toàn bộ thế giới. Vài phút sau khi tiếp nhận đoạn ghi hình vụ thảm sát, Đại Hội Đồng lập tức liệt gã vào hàng khủng bố nguy hiểm nhất, tương đương Liệt Giả. Các điều tra viên giỏi nhất không thể tìm được chút manh mối gì về Tiếu. Không thông tin cá nhân, không tiền án, không dữ liệu, gã vũ công như từ dưới đất chui lên. Vì gã, nỗi ám ảnh Liệt Giả cùng Xích Tuyết trở nên kinh khủng gấp bội so với hai mươi năm trước, đồng thời khiến Bất Vọng rơi vào vòng lao lý. Không những thế, gã còn xéo nát những nỗ lực truy tìm Quỷ Vương của công chúa.
Phi Thiên tạm thời gác chuyện Quỷ Vương và ưu tiên cứu Bất Vọng ra khỏi nhà tù trước. Bản thân Phi Thiên giải thích rằng duy nhất Bất Vọng mới có thể đối đầu Liệt Giả, nhưng thực tế là Bạch Dương đệ thập đã chán ngán Đại Hội Đồng. Gần ba tháng kể từ ngày Lục Châu lên đường, vẫn chưa nước nào lên tiếng giúp đỡ nàng. Ngài đệ thập đang tính chuyện cho công chúa rút lui. Mọi quốc gia đều tự tư tự lợi thì ngài cũng không cần mạo hiểm con gái mình để cứu Tâm Mộng.

truyện copy từ .
Sau bốn ngày, Thần Sấm đã tới lục địa Thượng Cổ lúc xẩm tối. Lục địa này từng là chốn hoang dã một đi không về, “tuổi đời” của nó chỉ kém Hỗn Nguyên. Sau này văn minh kỹ thuật phát triển, con người mở rộng đất sống, rừng núi bị san lấp nhiều; những câu chuyện thần bí thuở xưa cũng theo đó chìm vào quên lãng, nhường chỗ cho các thành phố rộng lớn. Thượng Cổ không những nổi tiếng vì sự lâu đời mà vì nơi đây có trụ sở cơ quan lớn nhất thế giới: Đại Hội Đồng.
Thần Sấm không tiến vào lục địa, nó hạ cánh ở một địa điểm kín đáo bên ngoài bờ biển. Các nhân vật quan trọng đi bằng phi thuyền nhỏ tiến về Đại Hội Đồng, theo sau đội tàu của Thổ Hành. Những nhân vật quan trọng gồm thống lĩnh Lục Thiên, thuyền trưởng Nhất Long, ngài đại thánh sứ, công chúa cùng các hộ vệ. Hài hước là Vô Phong cũng nằm trong số những nhân vật quan trọng, dù rằng hắn sống hay chết cũng chẳng ảnh hưởng quái gì đến hòa bình thế giới. Về phần Thanh Nhi, cô gái không hề biết cha mình đang ở trong tù. Bản thân Bất Vọng cũng cấm Phi Thiên nói cho nàng biết.
Trên phi thuyền, mọi người tranh thủ bàn thảo công việc. Dĩ nhiên chủ đề không gì khác ngoài Bất Vọng. Theo lời Lục Thiên, tầm ngày kia, một phiên tòa sơ thầm với Bất Vọng sẽ diễn ra. Thông thường, từ lúc thu thập chứng cứ tới khởi tố phạm nhân diễn ra chừng một hoặc hai tháng, đó là nhanh nhất. Nhưng dưới sức ép của nhiều nước, Đại Hội Đồng quyết định mở phiên tòa sớm. Chung quy cũng tại Bất Vọng. Thời tại ngũ, danh tiếng của gã vang lừng khắp Phi Thiên và cũng khét lẹt ở các nước đối địch. Cho nên gã vừa là nhân tài được săn đón, vừa là mục tiêu bị ám sát. Giờ gặp cơ hội tốt, lẽ nào các nước bỏ qua? Chính trị vốn chỉ quan tâm lợi ích, loại bỏ càng nhiều nguy cơ càng tốt. Vô Phong thì không hiểu vấn đề chính “chị” chính “em”, đành tìm một góc riêng phía cuối phi thuyền, mắt lim dim. Hắn không hề ngủ mà tâm trí hầu như nghĩ về Liệt Trúc.
Sau khi Liệt Trúc gọi mình là “anh”, Vô Phong rất bất ngờ. Hôm ấy hắn nghĩ con bé nhận lầm người nên… vội vàng bỏ chạy, mấy ngày sau tuyệt không dám quay lại. Sống tứ cố vô thân đã quen, giờ có người nhận thân thích, Vô Phong nhất thời không thích nghi nổi. Hắn chưa kể chuyện này cho ai, kể cả Hỏa Nghi. Một điều lạ là các nhà khoa học cũng không hé răng nửa lời, dù họ tận mắt chứng kiến sự việc. Tên tóc đỏ hỏi một trong trong số đó thì người đó trả lời rằng Lục Thiên yêu cầu họ im lặng. Rõ ràng Lục Thiên biết tất cả. Vô Phong bắt đầu hối tiếc vì đã không thẳng thắn ngay từ đầu. Nhưng giờ Lục Thiên bận túi bụi, Vô Phong muốn gặp gỡ cũng khó chứ chưa nói chuyện hỏi han.
Em gái ư? Vô Phong ngẫm nghĩ. Hắn tự soi gương và đánh giá rằng chẳng có điểm chung nào với Liệt Trúc. Con bé xinh như thiên thần, còn hắn rặt một bản mặt nhăn nhở như khỉ. Hay trước lúc mất trí nhớ, hắn đã nhận Liệt Trúc là em? Có thể lắm! Vậy cha mẹ nó đâu? Hay là hai người sống chung một gia đình? Tên tóc đỏ hận rằng chẳng hỏi han con bé nhiều hơn. Nó sẽ cùng Lục Thiên trở về Phi Thiên ngay sau khi phiên tòa kết thúc. Làm cách nào gặp lại đứa nhỏ đây? – Hắn vò tóc. Vô Phong bất giác cảm thấy tội lỗi. Lúc bỏ đi, hắn thoáng thấy Liệt Trúc khóc trong sự ngỡ ngàng. Có lẽ con bé không thể ngờ người anh sau bao năm xa cách lại cư xử như thế. Song nó đâu biết ký ức của tên tóc đỏ là một khoảng trắng sạch sẽ.
Cuộc họp kết thúc, mọi người trên phi thuyền nghỉ ngơi lấy sức. Tiểu Hồ ngồi kế bên Vô Phong, gương mặt không lấy gì làm thoải mái. Tên tóc đỏ hỏi:
-Có gì hay ho?
-Lung tung beng hết rồi! – Cô gái lắc đầu – Tên vũ công chết dẫm! Nếu gặp, tôi sẽ giết hắn!
-Thằng đó mà dễ chết vậy thì đâu khổ sở thế? – Vô Phong cười – Mà chúng ta đang ở đâu vậy?
Tiểu Hồ rướn người liếc mắt qua ô cửa kính rồi đáp:
-À, chúng ta vừa vào Sơ Khởi quốc, sắp tới nơi rồi!
Vì đã mất quyển “Tâm Mộng thế giới – kiến thức căn bản” nên Vô Phong không có cái để tra cứu Sơ Khởi là đất nước thế nào(*). Tiểu Hồ kể rằng đã từng có một đất nước mà lãnh thổ là cả thế giới, mọi người đều sống với một nền văn hóa, luật pháp, ngôn ngữ và nhà nước duy nhất. Nó tên là Tâm Mộng – quốc gia rộng lớn nhất trong lịch sử loài người. Đất nước Sơ Khởi ngày nay chỉ là thủ đô Tâm Mộng xưa kia mà thôi. Nhiều thế kỷ trôi đi, Tâm Mộng quốc dần rạn nứt, cuối cùng hình thành nên năm đế chế riêng rẽ mà sau này người ta gọi là “năm đế chế cổ đại”. Sau đó, chiến tranh và sự trừng phạt của Vạn Thế lên năm đế chế cổ, nền văn minh Tâm Mộng sụp đổ. Để tưởng nhớ đất nước vĩ đại ấy, người đời sau gọi thế giới là Tâm Mộng.
Đội phi thuyền bay thêm một tiếng nữa thì vào Cố Niên thành – thủ đô Sơ Khởi. Từ trên cao, Vô Phong có thể thấy những con đường mờ ánh đèn uốn lượn dưới các mái đền cổ xưa. Những tòa tu viện nóc hình kim cương tựa nhau san sát mặc cho thời gian đang gặm nhấm, in bóng xuống con sông lớn vắt ngang thành phố. Dòng nước xám chảy xuôi hướng đông tây, nơi hai bức tượng chiến binh khổng lồ bằng đá trấn giữ. Dọc bờ sông, những phế tích của một nền văn minh thuở sơ khai lẩn quất trong bóng tối như muốn thoát khỏi sự lạc lõng giữa hơi thở hiện đại. Tên tóc đỏ nhận ra ở phía dưới, rất nhiều đoàn phi thuyền đang tiến nhập thành phố Cố Niên. Hắn gãi đầu:
-Bộ đi du lịch hay sao mà đông dữ?
-Người hành hương đấy! – Tiểu Hồ nói – Tháng tám rồi!
Khoảng đầu tháng tám hàng năm, dân chúng từ khắp nơi trên thế giới lại đổ về Cố Niên thành. Nơi đây là tàn tích duy nhất còn sót lại sau sự trừng phạt của Vạn Thế, hết thảy đều cho rằng cây mẹ nhân từ. Hành hương thể hiện lòng tôn kính trước Vạn Thế, kể cả người nghèo khó cũng được trợ cấp để hành hương ít nhất một lần trong đời. Nhưng Vô Phong không nghĩ vậy. Nhân từ bằng cách để lại một thành phố đầy tàn tích ư? Hắn thấy nó giống kẻ giàu có thích trưng thức ăn thừa trêu người kẻ nghèo khó hơn. Tuy nhiên Tiểu Hồ có vẻ rất thích hành hương, cô nàng than vãn:
-Vạn Thế ơi, sắp có lễ hội và khiêu vũ! Tôi muốn đi quá!
-Cô? Khiêu vũ? – Vô Phong trợn mắt.
-Sao không? Tôi nhảy giỏi lắm đấy nhé!
Vô Phong không dám bình luận thêm. Thú dữ khiêu vũ hay khiêu vũ cùng thứ dữ, cái nào cũng đáng sợ cả. Hắn nhỏng cổ nhìn Cố Niên thành rồi hỏi:
-Đại Hội Đồng ở đâu vậy?
-Không phải dưới đó, mà ở trên! – Tiểu Hồ cười.
Đoàn thuyền Phi Thiên bay lên cao, sau hạ cánh xuống một phi trường hình đĩa lơ lửng trên không trung. Mọi người lục tục đi xuống, riêng Hỏa Nghi làu bàu vì ngủ chưa đã, hai mí mắt díu lại như đôi tình nhân quyến luyến không rời. Không gian phây phẩy những hạt mưa buốt. Gió lạnh lùa qua từng kẽ tóc, khí loãng khiến người khó thở. Vô Phong nhận ra mây ở ngay trên đỉnh đầu, hắn quờ tay và cảm giác chúng như đám khói đặc từ tủ lạnh vậy.
Phía cuối phi trường có con đường hình ống sâu hun hút, thẳng tuột đâm vào mây mù. Vừa lúc ấy, một người xuất hiện trước đoàn khách Phi Thiên đoạn cúi đầu:
-Công chúa và mọi người đây rồi! Thật may quá! Chúng tôi chờ mãi! Xin tự giới thiệu, tôi là Hồ Quy, nhân viên văn phòng đại diện Phi Thiên tại đây. Các vị, mời đi lối này!
Hồ Quy đưa cả đám vào cái ống khổng lồ, không gian tuy rộng song bị phủ kín bốn bề nên có phần bí bách. Dọc thân ống là hệ thống đèn chiếu sáng màu xanh nhạt. Các máy quay được bố trí thích hợp với khả năng thâu tóm hình ảnh từ mọi góc độ. Đây là con đường duy nhất để vào Đại Hội Đồng. Thi thoảng mọi người lại bắt gặp vài đám lính liên quân đi tuần. Không hề có cơ hội dành cho những kẻ muốn đột nhập.
-Người Xích Quỷ cũng tới rồi, nghe nói có phó đô đốc Đỗ Thọ và Đông Hoàng. – Hồ Quy nói – Hai người đó cũng tham gia phiên tòa sơ thẩm sắp tới.
Thuyền trưởng Nhất Long phì cười:
-Đỗ Thọ? Sao ta chưa nghe tên thằng ranh này bao giờ nhỉ?
-Ông ta mới giữ chức phó đô đốc khoảng hai năm nay, thưa ngài. – Hồ Quy đáp – Tiện đây, tôi vừa nhận kết quả báo cáo pháp y, mời mọi người xem qua.
Y mở túi áo, đưa cho Nhất Long vài tấm ảnh. Ngài thuyền trưởng nhăn mặt khi thấy xác chết của Hạ Đông treo lơ lửng trên lưỡi hái. Nhất Long xem xong liền chuyển cho mọi người, ai nấy tuy không lạ máu tanh nhưng vẫn khó kiềm chế sự ghê tởm đang trào lên từ cổ họng. Đây không phải giết người mà sự vui thú trên cái chết của gã vũ công Tiếu. Hồ Quy tiếp lời:
-Hạ Đông đã lên đường gặp các vị. Nhưng trước khi đến nơi, ông ta lưu lại ở một khách sạn tại Phần Thụ quốc, một quốc đảo gần đất thánh Hỗn Nguyên.
Ngài Nhất Long nhíu mày:
-Ông ta đến Phần Thụ quốc làm gì? Tính nghỉ dưỡng chắc?
-Hạ Đông bị ngộ độc thực phẩm, ông ta buộc phải dừng lại ở Phần Thụ quốc. – Hồ Quy trả lời – Nhưng đây là cái bẫy giăng sẵn từ trước. Gã thư ký của Hạ Đông đã khiến Hạ Đông bị ngộ độc, tay này móc ngoặc với Tiếu từ lâu rồi. Chính gã đã bán thông tin Quỷ Vương thứ nhất và Quỷ Vương thứ hai. Nhưng có vẻ Tiếu không cần gã nữa. Liên quân bắt được gã đang tìm đường chạy trốn về Đông Thổ.
Hạ Đông thường làm việc thông qua thư ký. Những chuyện liên quan đến Thánh Vực hay lời tiên tri, gã thư ký đều biết. Từ chuyện Vinh Môn, Thiên Phạn cho tới cái chết của Hạ Đông, gã đều có phần. Thực ra đã từng có nhiều nghi ngờ nhằm vào gã nhưng Hạ Đông đều gạt đi, cho rằng đó là những nghi ngờ vô căn cứ. Hồ Quy Nói:
-Tay thư ký khai rằng Hạ Đông có tình cảm đặc biệt với gã và gã lợi dụng nó. Điều ấy khá đúng. Vài người thân cận với Hạ Đông tiết lộ rằng ông ta là dân đồng tính.
Ai nấy đều quay ra nhìn Hồ Quy. Thống lĩnh Lục Thiên lắc đầu:
-Không ngờ đấy!
Chẳng ai nghĩ một ngài sứ giả đức cao vọng trọng lại là người đồng tính. Tất nhiên giới tính không thành vấn đề, vấn đề ở chỗ vì nó mà Hạ Đông chuốc họa vào thân. Cảm thấy không nên bàn luận chủ đề này thêm, Hồ Quy chuyển sang chuyện khác:
-À, còn một điều nữa! Ngài thủ lĩnh Hội đồng pháp quan cũng tới, có ông ấy, các vị chớ lo!
Hội đồng pháp quan Phi Thiên đích thực là tổ chức bí ẩn nhất thế giới. Ngay cả Lục Thiên và Lục Châu – con hoàng đế Bạch Dương đệ thập cũng chưa từng gặp người nào trong hội đồng. Riêng ngài đại thánh sứ Tây Minh im ắng nãy giờ bỗng lên tiếng:
-Trần Độ hả? Hắn đến à?
-Vâng, thưa ngài. – Hồ Quy xác nhận.
Cái ống dài ngoẵng cuối cùng cũng kết thúc, dẫn mọi người đến… cái ống khác. Nhưng cảm giác dễ thở hơn nhiều vì nó được cấu tạo bằng lớp vật liệu trong suốt. Nếu không có các khung thép bao quanh thì Vô Phong đã nhầm tưởng đang đi trên cây cầu vô hình. Hắn ngó xuống, nhận ra dưới chân mình, Cố Niên thành chỉ bé bằng lòng bàn tay. Biển mây dày đặc bên ngoài cuộn từng lớp như bậc thang đưa người lên thiên đàng. Mây rẽ đường, không gian rộng mở. Tiểu Hồ thúc tay Vô Phong:
-Đại Hội Đồng kìa!
Bước đi của hắn chậm lại, thần tình có phần sững sờ. Đây không phải lần đầu tiên Vô Phong chiêm ngưỡng tòa kiến trúc bay. Nhưng Thánh Vực gây ấn tượng bằng độ rộng lớn trải dài, còn Đại Hội Đồng áp đảo con người bởi kết cấu phức tạp, tầng lớp đồ sộ. Tiểu Hồ từng đến đây vài lần song vẫn không thể không cảm thán:
-Nó đó, còn gọi là “pháo đài bay”!
Đại Hội Đồng bao gồm đại thành – tòa thành lớn nhất nằm ở giữa, kết nối với ba tiểu thành nhỏ hơn bằng những đường ống trong suốt. Mỗi tiểu thành lại liên hệ với nhau thông qua các hệ thống đường ống khác. Dãy tháp canh bao quanh đại thành xếp lên nhau thứ tự từ nhỏ đến lớn, bảo vệ các tòa đại điện cao vút bên trong. Những ô cửa hình vòm sáng đèn rải rác trên thân đại điện, thở hắt thứ ánh sáng vàng vọt vào đêm đen vô tận. “Pháo đài bay” từng là vũ khí chiến lược thời chiến tranh năm đế chế. Nó được dùng cho những trận không chiến lớn hay phòng thủ dài hạn, sau này Đại Hội Đồng chọn nơi đây làm trụ sở, biểu thị tinh thần hòa hợp đa quốc gia. Có điều khi nhìn vào các dàn pháo lởm chởm trên tháp, Vô Phong cảm giác cái gọi là “tinh thần nhân ái” đó hơi khó nuốt.
Đi hết con đường vô hình, cả đám dừng bước trước cánh cổng lớn màu bạc của tòa đại thành. Cánh cổng là một tác phẩm điêu khắc lấy Vạn Thế làm chủ đạo mô tả sự hình thành thế giới, đường nét ước lệ đậm chất thượng cổ. Tiểu Hồ chỉ tay:
-Thấy đẹp không? Đỉnh cao nghệ thuật đấy! Nhiều họa sĩ hay tới đây để vẽ lại nó!
Vô Phong nhăn mặt. Hắn ngó bức họa khổng lồ, chỉ thấy một mớ hình khối xấu xí cắt gọt thô thiển. Trước hắn có nghe cái gì khác người sẽ thành nghệ thuật, khó hiểu cũng thành nghệ thuật. Từ nay có thêm định nghĩa mới: xấu quá cũng là nghệ thuật.
Cánh cửa tách đôi, đoàn người Phi Thiên tiến vào không gian khác ngập sắc vàng. Nơi họ đang đứng là đại sảnh rộng hàng trăm mét. Không đèn, không nến nhưng ánh sáng vẫn hiện diện khắp nơi. Ánh sáng soi rọi trụ đá chống trần duy nhất nằm giữa sảnh, làm nổi rõ những họa tiết khá cầu kỳ. Các bàn làm việc bố trí tại bốn góc sảnh với nhiệm vụ chuyển giao tài liệu, thông báo cấp trên. Ban ngày chúng còn kiêm thêm chức năng hướng dẫn khách du lịch vì Đại Hội Đồng mở cửa cho tất cả những ai muốn tới tham quan. Dù đã quá nửa đêm nhưng hoạt động trong Đại Hội Đồng vẫn hết sức bận rộn đến mức không mấy ai để ý những vị khách mới đến.
Con đường phía sau đại sảnh dẫn đến phòng họp Đại Hội Đồng, đá xám lạnh lặng thinh song hành cùng không gian u tịch. Vẫn phảng đâu đây chút luyến tiếc đất nước vĩ đại ở những bức tranh đã nghìn năm yên tĩnh. Hai bên đường có vô số cầu thang bộ nhưng Hồ Quy chỉ lối khác, đoạn nói:
-Chúng ta đi thang gió, nhanh hơn.
Thang máy mà y nói là căn phòng hình tròn không thấy nóc, chỉ thấy chấm sáng trắng từ đỉnh cao vút, tiếng gió phả vang dội tứ bề. Nền phòng làm bằng kim loại màu đỏ tía vẽ sơ đồ đại thành, chẳng hề giống loại thang máy thường thấy với chi chít nút bấm. Người dẫn đường dẫm chân lên hình vẽ tầng trên cùng, miệng lầm rầm chú ngữ. Sàn kim loại rung động với thanh âm chói tai và bắt đầu di chuyển, cảnh tượng từng tầng thoáng chốc xuất hiện rồi trôi xuống. Tò mò trước kiểu di chuyển mới lạ, Vô Phong buột miệng hỏi:
-Cái này hay dữ! Nó không chạy bằng điện à?
-Bằng sức gió. – Hồ Quy tươi cười – Cái nền dưới chân chúng ta di chuyển bằng hệ thống gió của đại thành. Anh có thể gặp hệ thống này ở bất cứ nơi đâu tại lục địa Thượng Cổ.
-Nhưng hình như nó là đồ phép thuật? Tôi thấy anh lẩm bẩm gì đấy…
-Mỗi tầng hay khu vực có mật khẩu riêng. – Người kia cười – Có loại mật khẩu đại chúng, ai cũng có thể đến. Có loại cơ mật nội bộ, chỉ số ít được biết.
-Vậy chúng ta đang đi đâu?
-Nhà tù.
Mặt sàn kim loại giảm tốc độ, tiếng động chát chúa báo hiệu mọi người đã tới nơi. Chấm sáng nhỏ nhoi mà Vô Phong thấy ban nãy thực chất chỉ là chiếc đèn treo hình con thoi đung đưa theo gió. Đoàn người tiến vào một hành lang u tối. Hồ Quy chỉ tay ra ngoài những ô cửa kính, nơi gió buốt phát ra từng tiếng gầm gừ đe dọa:
-Nhà tù đó!
Vô Phong nhìn theo hướng chỉ tay. Hắn không nghĩ đây là nhà tù, nó giống địa ngục hơn.
Nhà tù Đại Hội Đồng – nơi cao nhất “pháo đài bay”, một nơi đúng nghĩa thiên đàng, còn lính gác gọi nó là “địa ngục cõi trời”. Hàng ngàn lồng kim loại phơi mình giữa giông tố; những kẻ phạm tội bên trong hướng đôi mắt vô hồn về cõi vô định với bao nỗi vô vọng. Kẻ nuối tiếc, kẻ hối hận, kẻ rồ dại, mọi sắc thái biểu cảm của con người tập trung về một chốn. Những chiếc lồng được ếm bùa để tù nhân không chết vì áp suất khí quyển chênh lệch, nhưng lại để họ chịu bệnh tật vì giá rét. Tù nhân hầu hết bị cảm lạnh hoặc sốt cao, kẻ nặng hơn thì viêm phổi hoặc các bệnh đường hô hấp. Sương gió thay lũ quạ rỉa thịt tù nhân, đục phá tâm hồn, nghiền nát mọi hy vọng sống. Nhà tù chủ yếu tiếp nhận ba thành phần tội phạm: khủng bố, chính trị, diệt chủng.
Mọi người đi tiếp và bắt gặp “phòng giam” của Bất Vọng. Gã bị cùm bằng những dây xích ếm bùa ma thuật đề phòng phát tác nội lực. Gương mặt tái xanh nhưng Bất Vọng hầu như không để ý nỗi giày vò thể xác. Gã chỉ tựa lưng vào lồng, ngửa mặt đón nhận mọi cơn thịnh nộ của bầu trời. Hồ Quy trưng ra giấy phép đặc biệt trước lính canh, lát sau, một phi thuyền nhỏ bay ra ngoài tạm thời giải thoát cho Bất Vọng.
Đoàn người Phi Thiên đi tới căn phòng nhỏ phía cuối hành lang, bên trong là một thứ ánh sáng vàng vọt trơ trọi giữa bóng tối. Bất Vọng trầm lặng ngồi dưới ánh sáng ấy, mặt mày phủ đầy sương giá như con cá đông lạnh. Thấy gã, công chúa Lục Châu liền cúi thấp người hành lễ:
-Đội trưởng đội kiếm sắt! Thật vinh hạnh cho tôi!
Bất Vọng khẽ cúi đầu:
-Cảm ơn công chúa.
Vô Phong thấy gã xọp người đi rất nhiều so với lúc ở Cửu Long. Tuy vậy, hắn không lên tiếng tỏ ra quen biết mà chỉ đứng ngoài theo dõi tình hình. Bất Vọng hỏi:
-Thanh Nhi ổn chứ?
-Không cần lo lắng, ông bạn. – Nhất Long đáp lời – Con gái cậu có vẻ rất hợp với anh bạn Hỏa Nghi đây, nó sẽ là nhân tài của Phi Thiên quốc.
Hỏa Nghi nhe răng cười với ông bố vợ tương lai. Bất Vọng gật gù:
-Cảm ơn. Được rồi, chuyện của tôi hãy để sau, giờ tôi muốn gặp riêng đại thánh sứ Tây Minh. Một tiếng sau mọi người hãy quay lại, được chứ?
Cả đám nhìn về phía Tây Minh. Ngài đại thánh sứ gật đầu kiểu “sao cũng được” rồi bảo mọi người đi nghỉ trước. Lát sau căn phòng chỉ còn lại hai người mặt đối mặt, một già, một già hơn. Ngài đại thánh sứ đặt máy chống nghe trộm, lại dùng bùa chú kiềm tỏa không gian. Cuộc nói chuyện giờ chỉ hai người họ biết. Bất Vọng nhìn ngài đại thánh sứ lâu thật lâu, sau cúi đầu một cách kính trọng:
-Thầy vẫn khỏe chứ?
Tây Minh thở dài:
-Dạo này hay đau khớp lắm. Còn cậu?
-Tôi thì không ngủ được, thưa thầy.
Ngài đại thánh sứ gật gật, đoạn đẩy một bao thuốc về phía Bất Vọng. Gã ống khói sáng mắt, vội châm điếu rồi hít hà làn khói đặc quánh, sau mời Tây Minh một điếu. Ngài đại thánh sứ nhận thành ý của gã. Họ cùng hút thuốc và cùng im lặng. Chẳng giống hai người lâu năm mới gặp, Bất Vọng và Tây Minh chẳng hề trò chuyện quá khứ. Họ tìm kiếm tâm sự của người kia qua hơi thở, qua đám khói. Như vậy là đủ, không cần thiết phải mở lời thêm.
Vì nói nhiều hơn, tâm hồn càng trống trải hơn.
Bất Vọng nhìn đám khói mông lung rồi tiếp tục:
-Thầy đã thấy con bé Liệt Trúc chưa?
-Một con bé ngoan, sao nữa?
-Thầy có cảm giác lạ không?
-Tóc đỏ, sao nữa?
-Thầy thấy nó giống Liệt Giả không?
-Người giống nhau là chuyện thường. Liệt Trúc năm xưa mất tích rồi, nếu còn sống, nó đã là cô gái hai mươi tuổi.
Bất Vọng rút từ trong túi áo ra chiếc hoa tai đính lông vũ đỏ. Thần tình Tây Minh như có dòng điện chạy khắp cơ thể. Kinh ngạc, sững sờ và bắt đầu khó hiểu, bởi ngài đã nghĩ sẽ chẳng bao giờ gặp lại thứ này nữa. Gã ống khói trầm giọng:
-Dù không biết tại sao, nhưng thưa thầy, tôi khẳng định Liệt Trúc là đứa trẻ của hai mươi năm trước. Nó, chính nó, chính đứa bé tóc đỏ đó, là con Liệt Giả. Và tôi khẩn thiết yêu cầu thầy đừng mang nó về Phi Thiên! Xin lỗi phải điều này, dù biết Trần Độ là bạn thầy, nhưng tôi không muốn Liệt Trúc lảng vảng trước mặt lão ta!
-Cậu sợ Trần Độ?
Bất Vọng là kiếm sĩ mạnh nhất, đồng thời đứng trong bảy người hùng mạnh nhất Tâm Mộng. Gã còn gì phải sợ? Không, gã biết nhiều thứ còn khủng khiếp hơn cả phép thuật cấm hoặc bí kỹ. Phân vân một lúc, gã thành thật trả lời:
-Tôi ghê tởm Trần Độ.

Trong khi mọi người về phòng nghỉ ngơi, Vô Phong lại đi tìm nhà ăn. Hồ Quy rất vui lòng dẫn đường cho cái bụng léo nhéo của hắn. Vô Phong hỏi:
-Có nhiều món ngon chứ?
-Rất, rất nhiều! – Hồ Quy cười vang – Đồ ăn chủ yếu theo văn hóa Sơ Khởi quốc, thỉnh thoảng cũng có vài món từ nền ẩm thực khác. Nhưng tin tôi đi, đồ ăn Sơ Khởi quốc tuyệt vời nhất!
Hai người đi xuống bằng chiếc thang gió rồi vào tầng sáu của tòa đại thành. Họ đi qua tòa án hội đồng – nơi Bất Vọng sẽ đến sau vài tiếng nữa. Phòng xử án đóng im lìm, cánh cửa sắt màu đen chăng đầy dây xích, tỏa ra thứ áp lực nặng nề khiến không ai muốn đến gần. Vô Phong để ý bên cạnh cánh cửa sắt treo ảnh các vị thẩm phán từ hồi Đại Hội Đồng mới thành lập; có nam có nữ, có béo có gầy, có cao có thấp. Mỗi bức ảnh kèm theo lý lịch, công lao khi đương chức. Người làm việc một năm, người làm hai năm, có người làm tới mười năm trong khi số khác chỉ tại vị vài tháng. Thẩm phán đương nhiệm là người Băng Hóa Quốc, một người đàn ông với khuôn mặt sắt đá đến vô tình, đôi mắt hơi lồi như xẻ banh trái tim kẻ phạm tội. Vô Phong liếc xuống thông tin cá nhân, thấy ông ta đã làm thẩm phán sáu năm. Bên ngoài, đại sứ của nhiều nước đứng tụm năm tụm ba thảo luận, Vô Phong loáng thoáng nghe họ trao đổi thế này:
-Ngày kia xử rồi à? Sao nhanh thế?
-Nghe đâu Lưu Vân quốc gây áp lực. Họ ghét Bất Vọng mà!
-Tôi nghe thủ lĩnh Hội đồng pháp quan cũng tới. Xem chừng vui đây!
Họ nói còn dài, nhưng âm điệu rất nhỏ, Vô Phong chẳng nghe được gì thêm. Tiếng thì thầm rào rào không gian, nhưng đừng hòng nghe ra bất cứ chuyện gì. Có vẻ như tất cả những người đang đứng ở đây đều biết nói chuyện mà không cần mở miệng. Cũng phải, muốn làm chính trị trước tiên phải biết việc lớn: nói nhỏ.
-Lối này, thưa ngài hộ vệ! – Hồ Quy gọi.
Vô Phong bước theo Hồ Quy. Hắn bỗng nhận ra trong đám đông kia có người quen.
Người quen mà thực chất không quen. Một tên béo mập, đầu hơi hói, khoác trên mình chiếc áo lông quý tộc, ngón tay múp míp đeo nhẫn. Gã bồn chồn đứng không yên, chốc chốc lại ngó quanh. Ba tháng trôi qua, nhưng Vô Phong vẫn nhớ tên mập này. Không ai khác, chính là gã mập mà Vô Phong đã đụng độ ở Phi Thiên thành. Tên tóc đỏ rảo chân bước. Tên mập cũng ngay lập tức phát hiện ra hắn, gã vội lẩn trốn vào đám đông. Vô Phong hét:
-Đứng lại!
Tên mập vùng lên, xô đẩy mọi người, hai chân ngắn ngủn lạch bạch chạy như con vịt béo tìm đường thoát thân. Tên tóc đỏ vừa chạy vừa hét:
-Đứng lại! Con lợn kia! Đứng lại!
Gã mập chạy vội rồi dừng bước trước một người lão già. Vô Phong cũng ngừng truy đuổi, tuyệt đối không dám manh động. Lão già kia khoác áo choàng đen rộng thùng thình, khuôn mặt hốc hác hằn sâu vết đục đẽo của thời gian, đầu hói lơ phơ tóc bạc. Rất bình thường. Không ấn tượng gì đặc biệt. Ngoại trừ việc lão ta khoác bên mình một quyển sách nặng trĩu dày cỡ nghìn trang, oằn cong đôi vai khắc khổ. Lão nhìn Vô Phong, sau hỏi:
-Chuyện gì đây?
Hồ Quy hớt hải chạy tới nơi, anh ta thở hồng hộc:
-Xin lỗi ngài, đây là Vô Phong, hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu. Thưa ngài hộ vệ… – Hồ Quy quay sang Vô Phong – … đây là Trần Độ, thủ lĩnh Hội đồng pháp quan.
Nghe tiếng “Trần Độ”, hàng trăm người xung quanh lập tức chú mục vào lão già. Trần Độ khoát tay cười xòa:
-Có chút hiểu lầm thôi! Không vấn đề gì đâu! Đều là người quen của tôi cả!
Lão già tỏ ý không muốn ai can dự, đám đông vội vàng giải tán. Trần Độ nhìn quanh như hài lòng rồi chìa cánh tay khô đét như kiệt nước về phía Vô Phong, sau niềm nở giả tạo:
-Chào.
Vô Phong nhìn thẳng mặt lão, nhận ra một đôi mắt trũng sâu thăm thẳm như vực không đáy. Hắn chợt hiểu trên đời vẫn còn tồn tại vài thứ được gọi là “quái vật”. Vô Phong cố nén nỗi sợ hãi và bắt tay lão:
-Chào.

( * ) chú giải: lúc ở Cửu Long, Vô Phong đã bị Quạ Đen lấy mất quyển sách “Tâm Mộng thế giới – kiến thức căn bản”, xem lại Quyển 2 Chương 8

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.