Ngục Thánh

Chương 15: Dao, lược và kẹo cao su




Trên tàu điện, Vô Phong đứng cạnh một gia đình và loáng thoáng nghe họ trò chuyện. Thực tình hắn không nghĩ có thể gọi là “trò chuyện”, bởi nó chỉ gồm câu hỏi và sự im lặng của người được hỏi. Hắn nghe đứa bé trong gia đình ấy hỏi thế này:
-Cha ơi, tại sao lại có Đại Lộ Đỏ?
Đáp lại đứa nhỏ, cả người cha lẫn người mẹ lắc đầu và im lặng. Đứa trẻ hỏi thêm lần hai, lần ba rồi ngừng hẳn vì nó biết sẽ không bao giờ có câu trả lời trong sự im lặng dài lê thê đó. Cha mẹ đứa nhỏ không có lỗi, bởi lẽ ở miền đất đói nghèo và loạn lạc liên miên như Âm Giới, “lịch sử” là phạm trù vô cùng kỳ dị, vừa xa xăm mơ hồ lại vừa lố bịch.
Suốt năm mươi năm chiến tranh, ở Âm Giới tồn tại một vòng xoay: thế hệ cũ chết dần chết mòn, thế hệ mới lớn lên từ đống tro tàn của người chết, cứ thế lặp lại không biết bao lần và gần như bất tận. Người dân bây giờ chỉ quan tâm thức ăn, nước uống và chốn dung thân; lịch sử không phải thứ họ cần, hoặc sẽ từ chối tiếp nhận nếu ai đấy ngỏ ý cung cấp. Hầu hết bọn họ chẳng hay bộ mặt đất nước mình trước thời nội chiến ra sao, lại càng không rõ bề dày lịch sử của nó. Một đất nước không thành phố, không chính quyền mà chỉ toàn những Vùng An Toàn cùng binh lính nước ngoài, cái tên Âm Giới trong tâm trí người dân vì thế ngày càng xa xăm mơ hồ. Và lố bịch ở chỗ những người thông hiểu Âm Giới nhất lại là đám ngoại quốc, ví dụ như Mai Hoa.
Bằng giọng thì thầm to nhỏ, gã bốn mắt kể cho Vô Phong nghe lịch sử Đại Lộ Đỏ. Theo nhiều bằng chứng xác thực, nó xuất hiện từ thuở năm đế chế cổ đại. Sang thời phi cơ giới, dựa vào địa thế đặc biệt của Đại Lộ, các đế chế đã biến nó thành cửa khẩu vững chắc. Tuy nhiên, phi cơ giới là thời đại bị lãng quên, chẳng còn tài liệu nào cho biết nơi đây đã xảy ra bao nhiêu trận đánh hay sự kiện gì, chỉ còn lời đồn thổi về những cuộc chiến vô tận, máu tưới thấm đẫm cát và cái tên “Đại Lộ Đỏ” ra đời. Tất nhiên không ai tin vào truyền thuyết đáng sợ ấy. Năm mươi năm trước, chốn này vẫn là thắng cảnh thu hút khách du lịch.
Sự hỗn loạn lan khắp lục địa Kim Ngân, băng qua Âm Giới và gây nên cuộc nội chiến. Rồi kỷ nguyên Đầu Sói ra đời, những kẻ đầy tham vọng thành lập vô số băng đảng lớn nhỏ và lao vào cuộc tranh chấp lãnh thổ. Đại Lộ Đỏ trở thành miếng mồi béo bở đồng thời là võ đài giữa các Đầu Sói. Nhưng mãi tới ba mươi năm trước, nơi này mới chính thức có chủ. Nhiều lời đồn đại cho rằng vị chủ nhân này thuộc bảy người mạnh nhất thế giới. Rồi quy tắc ba đồng vàng được thiết lập, Đại Lộ Đỏ đón nhận mọi hạng người tại Kim Ngân. Trong mắt dân tị nạn, nó là Vùng An Toàn tránh chiến sự; trong mắt thương nhân, nó là chợ đen hoạt động công khai; còn với tội phạm bị truy nã, Đại Lộ là chỗ ẩn náu tuyệt vời. Chỉ cần trả đủ tiền, một tên tội phạm có thể sống ở đây suốt đời mà không lo bị tóm. Vô Phong nhíu mày, không nghĩ chuyện như vậy có thể xảy ra:
-Đùa tôi sao? Thằng nào cũng trốn được?!
-Bé mồm chứ! – Mai Hoa nhăn mặt – Phải, đã từng có một tên tội phạm trốn ở Đại Lộ Đỏ tới lúc chết. Để tôi nhớ xem… tên lão ta… à, Ma Xó! Lão ta tên là Ma Xó, tay đạo chích giỏi nhất mọi thời đại. Thời trẻ lão chôm chỉa quá nhiều, lúc già bị Đại Hội Đồng truy đuổi khắp nơi. Cuối cùng lão chạy về Đại Lộ Đỏ. Người ta truyền tai nhau rằng mỗi năm, Ma Xó biếu ông chủ Đại Lộ một thùng quang tố để xin chốn nương thân. Vậy là Đại Hội Đồng chẳng bao giờ sờ được gáy lão nữa. Từ ấy trở đi, tên tội phạm nào muốn sống ở Đại Lộ thì mỗi năm phải đóng một thùng quang tố. Tất nhiên chẳng mấy gã chịu nổi chi phí khủng khiếp đó.
Tên tóc đỏ ngạc nhiên:
-Đại Hội Đồng bó tay sao? Họ sợ ông chủ Đại Lộ thế cơ à?
-Có thể, tôi không dám chắc. Dù vậy, cậu nên biết danh xưng “bảy người mạnh nhất” không phải xướng lên cho vui. Không chỉ sở hữu kỹ năng chiến đấu bậc nhất, họ còn có nguồn tài chính hùng hậu và hàng ngàn con người sẵn sàng sống chết vì mình. Bất Vọng là trường hợp đặc biệt vì chẳng giàu sang hay có băng nhóm riêng. Nhưng tin tôi đi, hàng vạn gã kiếm sĩ sẵn sàng đi theo Bất Vọng nếu ông ta muốn. Bảo Đại Hội Đồng “sợ” họ là không đúng, mà nói Đại Hội Đồng “ngại” họ cũng không sai.
-Vậy ông chủ Đại Lộ là ai?
Mai Hoa nhún vai lắc đầu:
-Chịu! Ba mươi năm rồi mà chẳng người nào biết cả. Vả lại đừng tò mò quá mức, chúng ta còn nhiều việc cần quan tâm hơn. Tới nơi rồi, đi thôi!
Chiếc tàu điện chở bọn Vô Phong dừng lại trước Phân Khu số 3. Như đã bàn trước, Lục Châu và Chiến Tử tiếp tục đi tới Phân Khu số 7, còn Vô Phong và Mai Hoa xuống đây mua nhu yếu phẩm. Tên tóc đỏ cùng gã bốn mắt hòa vào dòng người rời tàu qua cửa sau. Cùng lúc ấy từ nhà chờ, hàng chục người nối gót nhau lên tàu bằng cửa trước. Nhà chờ Phân Khu số 3 luôn đông đúc chật chội hơn nơi khác do hành khách mang theo rất nhiều hàng hóa, đa phần mua ở chợ Đại Lộ Đỏ, thập cẩm bát vạn từ lương thực, quần áo, thuốc men, nước uống đến đao kiếm hay súng ống. Đại Lộ Đỏ cấm đánh lộn giết chóc nhưng không cấm bán đồ dành cho việc giết chóc đánh lộn. Vô Phong thấy người mua vũ khí ngoài đám áp tải hàng còn có dân thường. Cuộc sống đầy rẫy nguy hiểm bên ngoài Đại Lộ buộc nhiều người thiện lương thành kẻ tàn bạo. Cái ác vì thế cứ sinh sôi nảy nở khắp Âm Giới, chẳng cách nào ngăn cản nổi.
Hành khách lên xuống tàu điện khá đông nên hai người chen lấn mãi vẫn chưa ra khỏi nhà chờ. Trong lúc đợi dòng người di chuyển, Vô Phong dựa tay vào lan can sắt rồi phóng mắt ngắm nhìn quang cảnh Phân Khu số 3. Hắn thấy ngay trước cổng nhà chờ là con đường lớn tràn ngập người bộ hành lẫn đám quái thú giác cầu. Tính từ cổng vào, có năm con đường như vậy xuyên suốt Đại Lộ Đỏ nằm ngay bên dưới tuyến cáp treo. Chúng vốn dành cho bọn giác cầu nhưng nhiều người đi cùng lũ quái thú tới các Phân Khu thay vì kiên nhẫn chờ tàu điện. Giữa mỗi đường cái, hàng vạn lều bạt được dựng lên san sát nhau, tựa một đạo quân hùng hậu trải dài từ chân dải núi bên phải đến tận dải núi bên trái Đại Lộ. Giữa những lều bạt, vô vàn con đường nhỏ hơn tấp nập bước chân của kẻ mua người bán. Đây là khu chợ mà Mai Hoa đề cập đến, đồng thời là cái chợ duy nhất ở Đại Lộ Đỏ. Ai muốn mua hàng đều phải tới Phân Khu số 3, việc buôn bán ở Phân Khu khác bị cấm.
Bọn Vô Phong chen lấn hồi lâu mới thoát được nhà chờ chật ních người. Họ băng qua đường lớn thứ ba rồi bước vào chợ. Tên tóc đỏ chợt thấy khoảng năm sáu cái bóng chao liệng trên tầng không đang sà xuống. Chúng sở hữu sải cánh dài và rộng như cánh dơi nâng đỡ thân thể có lông trắng ngà, cổ ngắn phủ bờm trắng xóa, cái đầu hao hao đầu ngựa có mõm lớn và răng nanh hàm trên hơi lồi ra, hai lỗ mũi thở phì phì khói như đầu máy hơi nước cùng đôi mắt không tròng đỏ lừ. Mai Hoa cười:
-“Vân cước” đấy! Lũ quái thú cưỡi mây!
-Cưỡi mây là sao? – Vô Phong hỏi.
-Là chúng có thể đi bộ trên mây. Người ta nói loài vân cước được thánh thần nâng đỡ. Mấy gã nhà giàu khoái vân cước lắm, muốn chứng tỏ đẳng cấp mà! Nhưng chúng khá dữ nên phải mất thời gian thuần hóa, lúc bán ra ít nhất cũng vài trăm thùng vàng. Năm ngoái giới siêu giàu đấu giá một con vân cước lông đỏ, nghe đâu người mua nó đã trả bốn vạn thùng vàng.
Vô Phong mướt mồ hôi khi nghe số tiền khổng lồ, cảm giác từng thỏi vàng rớt bình bịch bên tai. Mai Hoa không khoác lác, loài vân cước thật sự biết cưỡi mây. Hiện chúng đang đậu trên nóc những gian hàng lợp vải bạt, điều lạ là các gian hàng không sập dù thân hình lũ vân cước to ngang cỡ con ngựa trưởng thành, chưa kể mỗi con đều mang người cưỡi trên lưng. Những người này bịt kín mặt, tay đeo băng đỏ, lưng đeo kiếm. Họ thuộc đội an ninh Đại Lộ, thường được biết đến nhiều hơn dưới cái tên “kỵ sĩ”. Phía xa, một gã kỵ sĩ bắc loa phóng thanh nói oang oang:
-Xắn tay áo lên! Chúng tôi không nói nhiều đâu! Anh kia, xắn tay áo lên! – Gã kỵ sĩ chỉ thẳng mặt Vô Phong – Chúng tôi nhận được tin vài gã vừa trốn “đóng dấu” và xâm nhập Đại Lộ. Chúng có thể là tội phạm hoặc quân trộm cắp. Vì sự an toàn của chính các vị, nếu gặp kẻ khả nghi, hãy thông báo ngay lập tức, chúng tôi rất vui lòng. Và chúng tôi cũng vui lòng xử lý những kẻ muốn che giấu chúng. Hãy nhớ, đừng phá luật!
Dứt lời, đám kỵ sĩ cưỡi vân cước bay đi và tiếp tục rảo quanh bầu trời. Vô Phong thấy họ chĩa ống nhòm xuống khu chợ. Xắn tay áo là chuyện bắt buộc, đồng thời là mốt ăn mặc tại Đại Lộ, nó giúp các kỵ sĩ phát hiện người không đóng dấu hoặc dùng hình xăm giả. Nhu cầu trú chân ở Đại Lộ quá lớn mà những kẻ nghèo kiết không đủ ba đồng vàng quá nhiều, dịch vụ đóng dấu xăm giả ra đời như sự tất yếu. Nhưng làm vậy chỉ giúp lừa gạt người thường chứ không thể qua mặt kỵ sĩ, bởi ống nhòm của họ tích hợp hệ thống dò tìm chỉ tương thích với dấu xăm thật.
Bọn Vô Phong tiếp tục tiến sâu hơn vào chợ. Tên tóc đỏ hết ngó sang phải rồi liếc sang trái, nhận ra các gian hàng kê san sát nhau và cùng bán một thứ: đồ may mặc, ngoài ra chẳng thấy dấu hiệu nào của thực phẩm hay bất cứ thứ gì khác. Theo lời Mai Hoa, chợ được chia thành nhiều khu riêng rẽ, mỗi nơi chỉ cung cấp duy nhất một loại mặt hàng. Kiểu sắp xếp này giúp đội an ninh Đại Lộ quản lý dễ dàng hơn, đồng thời tiện cho việc mua sắm một lần. Thương nhân, tội phạm, Đầu Sói… là những loại người thường “mua một lần”; họ đến chợ, vơ vét toàn bộ nhu yếu phẩm, nhanh chóng rời đi và không quay lại lần hai. Dân tị nạn đôi khi cũng “mua một lần” bởi rất nhiều người muốn đến Vùng An Toàn của liên quân, hoàn toàn không có ý định cư lâu dài ở Đại Lộ Đỏ.
Dân chúng Âm Giới vốn chẳng có nhu cầu trưng diện nhưng khu bán quần áo không hề vắng người qua lại. Dân tị nạn sống nay đây mai đó, y phục của họ vì vậy thường bẩn thỉu và rất nặng mùi, giặt giũ quá tốn công, chẳng thà mua hẳn bộ cánh mới. Mỗi đợt dân tị nạn vào Đại Lộ, khu buôn bán quần áo lại đông đúc khôn tả. Người mua chen chúc trước những gian hàng, tay xòe ngón trả giá món đồ, bao nhiêu ngón là bấy nhiêu đồng vàng. Trước hàng trăm con người, các chủ hàng – phần đông là nữ giới – đang vừa gói hàng, vừa mặc cả, lại kì kèo từng cắc bạc và luôn miệng cười nói lẫn chửi bới. Vô Phong không nghĩ họ có thể làm hàng trăm việc cùng một lúc như thế:
-Bộ này bốn đồng vàng! Không, chỉ bán bốn đồng thôi! Đồ của anh đây, xin cảm ơn! Mua gì nào? Bộ này á? Năm đồng vàng! Bốn đồng không bán đâu! Mấy? Bốn đồng rưỡi? Thôi được, hàng đây, cảm ơn! Cái gì? Đã bảo là bốn đồng vàng, không giảm nữa, không thích thì biến chỗ khác! Biến mẹ mày đi, thằng bủn xỉn! Xin lỗi, cô vừa nói gì nhỉ? À ở đây không có quần áo cho trẻ sơ sinh, đằng kia kìa, chỗ đấy có bán! Đó, đi thẳng là tới!
Tên tóc đỏ ngó thấy quần áo ở đây chủ yếu làm từ vải thô hoặc những chất liệu đơn giản, màu sắc đơn điệu như đen, đen xám hoặc nâu xám. Khách hàng cũng chẳng có nơi ướm thử đồ trước khi trả tiền, thành ra hầu hét đồ may mặc đều rộng thùng thình theo tiêu chí “thừa hơn thiếu”, hầu như không tồn tại tính chất nào gọi là “thời trang”. Dù vậy chúng khá bền và thích hợp cho chuyến đi dài ngày – một ưu điểm đáng kể.
Bọn Vô Phong đi theo hướng đông nam và nhắm tới khu buôn bán thực phẩm. Lúc gần rời khu bán quần áo, tên tóc đỏ chợt dừng lại trước một gian hàng bé xíu nằm lọt thỏm giữa hàng chục gian khác. Nó quả thực rất nhỏ, mặt tiền chỉ rộng hơn một sải chân, thấp lè tè và Vô Phong phải cúi người xuống mới có thể dòm vào trong. Hắn nhận ra kệ hàng bày nhiều món linh tinh như dây chuyền kết từ mảnh đạn pháo, vỏ đạn mài giũa thành hình hoa lá, vài chiếc lông vũ, dăm ba chiếc thẻ bài của binh lính tử trận hay đám đồ chơi hình nhân uốn từ sợi sa kết tuyến đã hết năng lực phép thuật. Đáng chú ý hơn cả là những chiếc khăn treo trên khung cửa, chúng được thêu bằng tay, hoa văn bắt mắt với họa tiết hình mây hoặc hình quái thú cách điệu. Tình hình kinh doanh của tiệm này chẳng mấy khá khẩm bởi rất ít người chú ý đến nó, họa chăng là mấy đứa trẻ song cha mẹ chúng sẽ chẳng chịu tốn xu nào để mua những thứ đồ chơi nọ.
Chủ tiệm là một bà già đang ngồi thêu khăn, vóc dáng nhỏ bé y hệt cửa tiệm, trông thấy Vô Phong thì ngừng thêu rồi chồm người về phía trước. Bà ta im lặng song gương mặt già nua đầy rạng rỡ như miền đất nứt nẻ đón cơn mưa đầu tiên sau bao năm khô cằn. Tên tóc đỏ cười:
-Bà làm tất cả những thứ này à?
Bà già gật đầu. Vô Phong bèn chỉ vào một chiếc khăn màu xanh dương thêu hình con cáo rồi hỏi:
-Cái này bao nhiêu?
Bà già giơ một ngón tay, Vô Phong hỏi lại:
-Một đồng vàng?
Bà chủ hàng gật gật đầu. Vô Phong bèn trả một đồng vàng. Bà ta nhận tiền rồi cười lớn, rõ ràng tên tóc đỏ là tia sáng rọi vào con đường kinh doanh tối tăm của bả. Tuy nhiên, tiếng cười bà già méo mó, tắc ứ phía sau hàm răng đen kịt cùng cái lưỡi bị cắt quá nửa. Tên tóc đỏ rùng mình kinh khiếp, cảm giác một vật nhọn hoắt vừa thọc vào cổ họng mình. Đến giờ Vô Phong mới biết bà chủ hàng bị câm. Hắn vội rời đi, tuyệt không muốn hỏi lý do gì mà bà ta bị cắt lưỡi.
Hai người rời khu bán quần áo rồi hướng đến đường lớn thứ ba. Vì gần khu buôn bán thực phẩm nên con đường này đông nghẹt người qua lại lẫn bọn giác cầu, hai người đành xếp hàng chờ đợi. Trên không trung, tàu điện chạy không ngừng nghỉ, đám kỵ sĩ cưỡi vân cước rảo quanh và liên tục nhắc nhở những người chưa xắn tay áo. Trong lúc chờ đợi, Mai Hoa trỏ vào chiếc khăn mà Vô Phong mới mua:
-Đẹp đấy chứ? Định tặng ai hả?
Vô Phong cau mày:
-Sao biết?
-Gã đàn ông nào mà thích loại khăn quàng màu sắc nữ tính vậy chứ? – Gã bốn mắt cười – Hình con cáo hả? Định tặng cho con “cáo nhỏ” nào đấy chăng?
Mai Hoa rốt cục vẫn là con cú vọ với kiểu ăn nói móc họng chẳng lẫn đi đâu được. Vài phút trước, Vô Phong còn thích thú Mai Hoa bởi sự hiểu biết của gã về lục địa Kim Ngân, nay vừa thấy gã mở sổ tay ghi ghi chép chép, sự thích thú đó liền bị giẫm đạp không thương tiếc. Tuy không rõ Mai Hoa viết cái gì nhưng tên tóc đỏ đoan chắc có mấy dòng liên quan giữa hắn và con “cáo nhỏ” kia. Thằng chết tiệt! – Hắn lẩm bẩm chửi.
Đợi đoàn người và giác cầu qua hết, bọn Vô Phong sang bên kia đường, sau đó tiếp tục băng qua nhà chờ tàu điện. Phía sau nhà chờ là khu chợ buôn bán thực phẩm. Ngay khi thấy những gian hàng phủ vải bạt, Vô Phong bất giác nhận ra một cơn sóng mùi vị khổng lồ ập tới, xô vào mọi giác quan. Hắn ngửi thấy mùi nồng đồ khô, mùi tanh đồ sống, mùi thơm từ các loại gia vị, mùi thịt chín ngăm vị khét do hơi quá lửa và hàng đống mùi tạp nham khác mà hắn không thể đoán được. Giữa bầu không khí đậm đặc ấy, hàng ngàn con người đang mua sắm, thanh toán, nấu nướng và giết mổ. Khu bán thực phẩm là cái siêu thị kiêm nhà bếp khổng lồ, cũng là chốn sôi động nhất Đại Lộ Đỏ. Mai Hoa nói rằng nhiều người tốn ba đồng vàng nhập cảnh chỉ để mua thực phẩm ở Đại Lộ, thậm chí gã sẽ không lạ nếu bắt gặp nhân vật máu mặt nào đấy, bởi lẽ khu chợ sở hữu nhiều thứ không thể tìm mua ở nơi nào khác.
-Ở Kim Ngân có một số người được gọi là “đạo chích không trung”. Bọn họ thường bắt những con quái vật trên tầng không và bán cho Đại Lộ Đỏ. – Mai Hoa nói – Một số loài dùng làm thú cưỡi như vân cước, một số thì làm thực phẩm. Thịt trên trời, giá cũng trên trời luôn. Đám thượng lưu khoái mấy món này lắm!
Chợ thực phẩm sôi động hơn so với những gì mà nó thể hiện bên ngoài. Không giống bên bán hàng may mặc, các sạp hàng thường quây thành vòng tròn, phía trong là khu chế biến đặt ngầm dưới lòng đất, bên cạnh đường ngầm có máy kéo ròng rọc đưa hàng lên hoặc chuyển hàng xuống. Theo lời Mai Hoa, hệ thống đường ngầm khá rộng, bao phủ toàn bộ Phân Khu số 2 và số 3. Nó được xây dựng từ thuở Đại Lộ Đỏ còn là tiền đồn biên giới, dùng để trữ vũ khí và nơi ở cho binh lính. Sau này các chủ tiệm tận dụng nó làm nhà kho, lò mổ, đồng thời vận chuyển hàng nhờ những con đường ngầm thông nhau. Vô Phong để ý phía sau sạp hàng có nhiều ống thông gió chĩa lên giúp người làm việc dưới hầm ngầm dễ thở hơn, nhưng cũng thải ra vô số mùi chẳng mấy dễ chịu. Chốc chốc, Vô Phong lại thấy máy kéo ròng rọc đưa người lên, ai nấy mồ hôi nhễ nhại, quần áo dính đầy máu tanh. Máu loài nào thì tên tóc đỏ không rõ nhưng hắn cá rằng những cái ống thông hơi chẳng giúp mấy gã đồ tể dễ chịu hơn, bởi gã nào gã nấy hằm hằm mặt như sắp xẻ thịt người thay vì động vật. Nhóm người này vừa đi, một nhóm khác liền thế chỗ và tiếp tục công việc.
Sạp hàng kể trên là một trong số ít sạp bán hàng tươi sống. Trong khu buôn thực phẩm, số gian bán đồ tươi chiếm chưa tới ba phần mười, còn lại thuộc về hàng bán đồ khô. Tại Âm Giới nói riêng và Kim Ngân nói chung, đại đa số người dân dùng đồ khô vì chúng có thể tích trữ lâu ngày. Nhưng nguyên nhân chủ yếu do thực phẩm tươi sống quá đắt đỏ, hầu như chỉ dành cho những kẻ giàu có. Thành thử khu đồ tươi như viện bảo tàng, thịt trên sạp như hiện vật, khách khứa đi qua chỉ dám ngó chứ không dám sờ. Nhưng dù đồ khô hay đồ tươi, cách thức bày bán của các sạp khá kinh dị. Từng con thú bị xẻ tanh banh được treo lên, đầu dính hờ với thân, từng miếng da bị lột hẵng còn ấm và chảy ròng ròng máu, những thùng bên cạnh sạp đựng đầy lòng mề phèo phổi bốc mùi tanh móc họng. Ở Đại Lộ, trừ con người, bất cứ thứ gì biết chuyển động đều có thể làm thức ăn và người ta sẽ không chừa bất cứ bộ phận gì của nó.
Bọn Vô Phong sang gian đồ khô, mua hàng đủ dùng cho bảy ngày tới, xong xuôi đâu đấy thì quay trở lại khu bán đồ tươi. Sau gần một tuần sống cùng thực phẩm đóng hộp, bụng dạ họ đông đặc như thể nội tạng dính lại với nhau, cổ họng quên sạch cảm giác được tận hưởng cái gọi là “ngon”. Giờ đây, một bữa ăn thịnh soạn nóng sốt sẽ giúp họ hồi phục sức lực và tinh thần. Nhưng hiện tại, những loại thực phẩm thông thường như thịt lợn hay thịt bò đã hết sạch, phần lớn do đoàn thương nhân mua. Đám kiếm sĩ Âm Giới bán mạng cho thương nhân cũng vì mong một bữa ăn có thịt tươi. Mai Hoa hỏi một gã chủ sạp to béo thì tên này cho biết 3 giờ chiều mới có lô hàng mới, hiện chỉ còn thịt cao cấp, giá bán không còn là đồng vàng nữa mà chuyển thành thùng vàng. Tuy vậy Mai Hoa chẳng ngán, gã ghé đầu hỏi khẽ:
-Thế có thịt gì?
Tên chủ sạp cũng thì thầm trả lời, thổ âm khá nặng:
-Thịt lũ “thiên tặc”. Hai mươi thùng “thàng” miếng lưng, năm mươi thùng… năm mươi miếng sườn, một trăm khúc đùi, hai trăm rưỡi đôi cánh. Lấy miếng nào?
Gã không đụng nhiều chữ “vàng” vì toàn nói thành “thàng”. Mai Hoa nói:
-Cho miếng sườn. Nhờ ướp giùm gia vị trước.
Gã chủ sạp to béo gật đầu đoạn dẫn bọn Vô Phong xuống đường ngầm . Tại đây, việc mua bán thịt cao cấp được tiến hành từ khâu giết mổ tới khi ra thành phẩm, khách hàng có quyền chứng kiến từ đầu đến cuối nhằm đảm bảo hàng thật giá thật. Vô Phong không nghĩ Mai Hoa dám bỏ ra ngần ấy tiền chỉ vì một miếng sườn. Đợi lúc xuống đường ngầm bằng thang kéo ròng rọc, tên tóc đỏ mới hỏi nhỏ gã bốn mắt:
-Mua thật à?
-Thật chứ! Hê hê, sẽ có người thanh toán toàn bộ chi phí chuyến đi nên tôi chẳng việc gì phải tiếc cả.
Mai Hoa nở nụ cười tinh quái. Vô Phong không nói gì thêm, trong lòng ghét gã hơn một chút. Sau vài giây, chiếc thang máy dừng hẳn, gã chủ sạp dẫn hai người vào sâu trong đường ngầm. Đợi gã này cách một quãng, Mai Hoa lại tiếp lời:
-Dù sao nó cũng tốt cho công chúa. Tôi bảo cô ta không tắm nhưng không thể ép cổ ăn mãi đồ hộp hay đồ khô được. Sức khỏe của công chúa quan trọng nhất, cổ mà mệnh hệ gì, lấy ai xử lý con Ác Lạc Điểu đây?
Tên tóc đỏ im lặng lần hai, trong lòng thấy Mai Hoa không đến nỗi tệ.
Theo chân gã chủ sạp, bọn Vô Phong bước vào lò mổ. Tại đây, từng con thiên tặc được nhốt trong lồng sắt chờ xẻ thịt. Chúng có đôi tai dài ngoẵng, bộ mặt bèn bẹt cùng chiếc mũi tẹt dí trông chẳng ăn nhập gì với đôi mắt to cộ màu đen nhưng lại rất hợp với bộ hàm rộng đầy răng sắc nhọn. Thấy người đi qua, chúng bấu vào thành lồng rồi rít lên những âm thanh chói tai. Thiên tặc có đôi cánh mỏng dính, thân dài, tứ chi mỏng mảnh sở hữu móng vuốt quặp. Với lớp da màu trắng, chúng thường ẩn mình trong mây và là tử địch của loài vân cước. Bề ngoài thiên tặc vừa đáng ghét vừa đáng sợ, nhưng thịt của chúng đắt đỏ thuộc loại nhất nhì. Ngay lúc này, một tay đồ tể đặt lên bàn một khúc thịt thiên tặc màu đỏ, gân mỡ nhỏ li ti đan xen ngang dọc, trông qua như cục hồng ngọc vân trắng. “Bảo sao nó đắt dữ vậy!” – Vô Phong thầm nghĩ.
Tay chủ sạp lựa một con thiên tặc đem qua cho đám đồ tể. Việc xử lý thiên tặc trông vậy cũng lắm công phu. Trước tiên là việc cắt tiết, con thú bị xích toàn thân, sau đó một đồ tể nhiều kinh nghiệm sẽ hạ nhát dao vào phần nách con thú sao cho nó chảy nhiều máu nhất và chết nhanh nhất. Sau đó lại cần hai người thực hiện công đoạn lột da, bắt đầu từ phần bụng con quái thú, hai lưỡi dao phải rạch cùng lúc và đường rạch phải tương xứng nhau. Vô Phong đánh giá cao thịt thiên tặc nhưng không thích cách người ta giết mổ nó. Trông vẻ mặt khó chịu của tên tóc đỏ, Mai Hoa bèn nói:
-Thịt con này cần xài chung với mấy loại rau củ, sao cậu không đi mua nhỉ? Chợ rau gần đây thôi, tiện thể tự mình khám phá Đại Lộ cũng hay hơn chứ?
-Sao không đi cùng tôi? – Vô Phong hỏi.
-Chúng ta bỏ ra năm mươi thùng vàng cho một miếng thịt đấy, bỏ đi nhỡ họ tráo hàng thì sao? Hãy là người tiêu dùng thông minh!
Dứt lời, gã bốn mắt liền viết những mặt hàng cần mua lên một mảnh giấy rồi đưa cho Vô Phong:
-Cẩn thận bị hớ nhé! Không cần lên đó đâu, đi bằng đường ngầm cho nhanh! Đi thẳng, thấy ngã ba thì rẽ phải, đi thẳng tiếp thấy một ngã tư rồi rẽ trái, đi tiếp, thấy một ngã ba thì tiếp tục rẽ phải, đi thêm đoạn nữa sẽ tới nơi.
Vô Phong méo mặt với khoản chỉ đường của Mai Hoa. Hắn rời khỏi lò mổ bằng cửa sau và bước vào đường ngầm. Những đường ngầm hình thành nhờ hệ thống khung và mái kim loại cố định cát, chúng nối liền các lò mổ, kho hàng, thông ra tận bên ngoài Đại Lộ. Ở đây chỉ có dấu chân của người vận chuyển và khách khứa mua thịt cao cấp. Cứ vài phút, Vô Phong lại thấy một đoàn vận chuyển khoảng bảy tám người từ phía sau đi lên, hàng hóa chất đầy trên những xe cút kít. Ít lâu sau, hắn bắt gặp một vị khách, tay xách món hàng bọc kín trong vải đen. Theo sau người này là vài gã vệ sĩ, tay thủ vào túi áo và sẵn sàng phản ứng nếu phát sinh biến sự. Tên tóc đỏ vội quay đi, không dám nhìn thêm nữa. Tại nơi đây, mọi cái nhìn lâu hơn năm giây đều bị coi là thái độ thù địch.
Đường ngầm không dễ đi như Vô Phong tưởng. Hắn đã vượt qua ngã ba đầu tiên song lại không thấy ngã tư tiếp theo mà là một ngã ba khác. Tên tóc đỏ tạm dừng bước, đợi một đoàn chuyển hàng đi qua thì hỏi đường tới chợ rau. Họ bảo hắn rẽ trái và cứ đâm thẳng tuốt là sẽ đến nơi. Nghe lời họ, tên tóc đỏ cứ theo lối ấy và sau mười phút thì tìm được cửa ra phía cuối đường ngầm, sau cửa tấp nập bóng người qua lại. Chợ rau đây rồi! – Hắn thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ngay khi bước qua cửa, tên tóc đỏ nhận ra mình đã sai lầm. Trước mặt hắn không có rau củ nào mà là một căn nhà rộng, sực nức hương thơm ma mị của khói thuốc lẫn nước hoa. Tại sảnh lớn, những cô gái ăn vận hở hang đang lắc lư theo tiếng nhạc, uốn éo thân mình trên người những gã đàn ông hừng hực khát tình. Trên hai đường cầu thang dẫn lên tầng lửng, hàng chục cô nàng mặt hoa mày phấn dựa tay bên lan can đợi chờ khách. Phía cửa sổ, rèm treo đủ màu sắc diêm dúa bao lấy không gian mờ mờ tràn đầy thanh âm dục vọng. Bỏ mẹ tôi rồi, nhà chứa! – Vô Phong lẩm bẩm đoạn xoay gót, nhưng bỗng đâu một cô gái điếm chạy ra bá vai bá cổ hắn, đôi môi cong gợi tình phả vào tai tên tóc đỏ:
-Đi đâu thế chàng trai? Đến đây rồi phải vui chơi chứ? Đi với em không? Năm đồng vàng thôi, em sẽ cho chàng vui tới bến!
Vô Phong quay sang ngó cô ả. Nàng ta dáng cao, thân hình nảy nở dưới váy lụa mỏng hững hờ và Vô Phong thấy hết mọi thứ của cô nàng từ ngọn tới gốc. Làn da trắng cùng chiếc mũi cao cho thấy cô gái không phải người Âm Giới mà đến từ nơi nào đấy thuộc Hoa Thổ hoặc Băng Thổ. Nhìn lại dàn gái điếm, Vô Phong chợt nhận ra hầu hết họ là dân nước ngoài. Người Âm Giới thiếu ăn từ bao năm nay, sản sinh ra một cô gái đẹp không phải chuyện dễ, làm điếm lại càng không.
-Xin lỗi, tôi… tôi đang tìm đến chợ rau! – Vô Phong nói.
Nàng gái điếm cười lớn:
-Rau? Ở đây là chợ “rau” mà? Chàng không biết à?
-Ơ… thế ở đây người ta gọi là “rau” à?
Cô nàng ôm lấy mặt Vô Phong mà hôn lấy hôn để:
-Ừ, người ta gọi là “rau”. Vậy chàng muốn ăn “rau” nào đây?
Ả vừa nói vừa đưa tay sờ soạng khắp người Vô Phong. Họa là thánh mới chịu nổi trò khiêu khích của cô nàng. Vô Phong người trần mắt thịt, chẳng phải thánh. Hắn cảm giác thằng cu con dưới đũng quần sắp chui ra và ngỏng đầu hỏi “ê, có chuyện gì vui vậy mày?”. Lý trí nhắc nhở Vô Phong về nhiệm vụ, nhưng sẵn túi có tiền lại chưa hưởng mùi đàn bà bao giờ, hắn nửa muốn chuồn nửa muốn ở lại. Vạn Thế ơi, công chúa ơi, tôi phải làm gì đây?
Đương phân vân suy tính, Vô Phong bỗng nghe thấy tiếng đập phá náo động khắp nhà chứa. Toàn bộ gái điếm cùng khách hàng ngừng cuộc chơi, dồn toàn bộ ánh mắt về một căn phòng ở tầng lửng. Trong căn phòng ấy là vô số tiếng chửi bới cãi lộn, tiếng động chân động tay. Cánh cửa phòng chốc chốc lại rung bần bật và khi không thể chịu nổi hơn nữa, nó bật tung bản lề, đổ sập xuống. Ngay sau đó, một gã từ trong phòng lao ra, người trần như nhộng mặc độc chiếc quần đùi, hai tay ôm quần áo, cổ khoác đôi giày, miệng ngậm ví tiền. Trước sự xuất hiện của gã, nhà chứa hình thành hai thái cực đối lập: những nàng gái điếm nhìn gã mà trầm trồ thán phục, còn cánh đàn ông và lũ bảo kê tức nổ đom đóm mắt. Riêng Vô Phong chẳng hiểu mô tê gì, chỉ thấy thằng cha trần trùng trục kia nhảy xuống sảnh rồi hùng hục chạy về phía cửa. Lũ bảo kê hùa nhau chặn cửa, tay lăm lăm gậy gỗ, miệng chửi bới liên hồi:
-Con bà mày, trả tiền! Không thì nhừ xương!
Gã nọ giơ tay xin hàng:
-Bình tĩnh, các quý ông! Xin hãy bình tĩnh nào!
Gã cười cười nói nói, chân bước giật lùi về phía Vô Phong. Đợi gã xoay lưng lại, tên tóc đỏ mới nhìn rõ dung mạo của người này. Gã khá cao, tạng người không quá rắn chắc nhưng rất cân đối, giả như có thêm chút cơ bắp, cơ thể gã sẽ y hệt bức tượng đẽo tạc hoàn mỹ. Gương mặt gã vuông vức, tóc vàng dài ngang vai, râu quai nón màu vàng cam lún phún khắp cằm và mang tai, đôi mắt sâu tỏa làn mục quang như lốc xoáy hút hồn người đối diện. Duy một khiếm khuyết nhỏ là quanh mắt gã hằn nhiều nếp nhăn của kẻ đã qua tuổi bốn mươi. Bất quá khiếm điểm ấy chỉ khiến gã thêm phần hấp dẫn. Vô Phong dám cá số lượng cô gái qua tay gã này nhiều không đếm xuể. Liệu người phụ nữ nào từ chối một gã bốn mươi tuổi đầy phong độ như thế?
-Trả tiền đi, Đại Bác! Mày nợ quá nhiều rồi! – Một tay bảo kể chỉ thẳng vào gã trung niên tóc vàng – Hai trăm đồng vàng! Hai thùng vàng (*)! Mẹ kiếp, mày ngủ với bốn mươi con điếm của chúng tao mà không trả đồng nào! Còn tính nợ đến bao giờ? Này, hôm nay mà không trả thì bỏ lại đây một quả thận hoặc miếng gan, bán mấy thứ đó là đủ trả nợ đấy!
Vô Phong suýt phì cười trước danh xưng “Đại Bác” của thằng cha tóc vàng. Tuy nhiên gã này chẳng nao núng trước lời hăm dọa của đám bảo kê. Gã thả phịch quần áo xuống đất, diễu qua diễu lại sảnh nhà chứa với chiếc quần đùi và lớn giọng:
-Ê, ê! Cái này không tính nhé! Trả tiền thì được thôi, nhưng nếu người mua làm thỏa mãn người bán thì đâu cần phải trả chứ? Này các cô em, hầu như các cô ngủ với ta hết rồi nhỉ? Thấy thế nào, “vui” chứ hả?
Những cô gái điếm không nói gì, nhưng hết thảy họ đều mỉm cười nhìn gã. Trên tầng lửng, cô nàng từ căn phòng trật cửa nọ đến giờ mới chui ra, người cuốn tấm ga trải giường mỏng manh, gương mặt vẫn chưa hết thỏa mãn sau cuộc mây mưa. Vừa thấy gã Đại Bác, cô ả vịn tay lên lan can gọi tên gã:
-Đại Bác à… sao đã đi rồi? Em yêu chàng…
Đại Bác vỗ tay nhiệt liệt đón nhận nụ hôn gió của cô gái. Gã tiếp lời:
-Nào, thấy chưa? Cuộc sống này là trao tình yêu thương cho nhau, thưa các quý ông! Khi hai bên đều thỏa mãn, đâu cần tiền bạc nữa nhỉ? Có hai thùng vàng mà các quý ông đòi băm chặt người khác, tôi sợ đấy! Ô, cô em nào thế này, sao ta chưa từng nhìn thấy em nhỉ? Lại đây, nào lại đây! Ôi, em dùng nước hoa gì thơm vậy? Ta đoán nhé, “Hồ Hà – 56” đúng không? Ta ưng cưng rồi đó nha!
Gã ôm lấy một cô gái và nhẹ nhàng hôn lên má, cứ thế mà buông lời ong bướm tình tứ. Cô gái gần như chẳng có phản ứng, cứ mặc gã thích làm gì thì làm, gương mặt đỏ bừng như trái dâu chín. Phía đầu sảnh, một tên đàn ông không thể chịu được cảnh ả gái điếm ngồi trên bụng mình mà lại hướng toàn bộ sự tập trung về phía Đại Bác. Lòng tự tôn bốc cao, hắn tức giận hẩy cô ả sang bên cạnh rồi đứng dậy chỉ thẳng mặt gã trung niên tóc vàng:
-Con mẹ mày, bóc bánh trả tiền! Ở đây chẳng có cái luật mẹ nào cho mày miễn phí hết! Mày chỉ là thằng mồm mép dẻo quẹo lừa gái!
Đại Bác thở dài ngao ngán, gã phẩy phẩy tay như xua con chó sủa nhặng:
-Dẻo quẹo thì sao? Thằng nào trước mặt phụ nữ chẳng dẻo quẹo? Mà còn nhiều thứ nữa mới làm phụ nữ thỏa mãn cơ! Này ông anh, “súng” của ông anh bự bằng “súng” của tôi không? Không bằng thì miễn tiếp chuyện nha! Không tin hả, coi thử nè!
Nói xong, gã liền tụt quần xuống rồi xoay vòng vòng cho bàn dân thiên hạ coi xem “súng” của mình lớn cỡ nào. Vạn Thế ơi, có loại người mặt dày cỡ này à? – Vô Phong cười sằng sặc. Nhưng tiếng cười của gã lọt thỏm giữa không gian đầy náo loạn. Đám đàn ông điên tiết chửi bới loạn xạ, trong khi những cô gái điếm lại trầm trồ ngưỡng mộ, vài cô còn huýt sáo mời gọi Đại Bác. Một gã bảo kê gào lớn:
-Con bà nó, không nói nổi thằng này nữa rồi! Đánh chết nó đi!
Lũ bảo kê nhà chứa siết thành vòng vây bao chặt lấy Đại Bác. Gã tóc vàng kéo quần lên rồi móc ra một thứ như cán dao, dường như định chơi bài liều. Nhưng trái ngược suy nghĩ của đại đa số người, cái cán dao đó lại thòi lên… một chiếc lược. Đại Bác dùng lược chải tóc, ánh mắt không ngừng đong đưa với các cô gái và bọn họ cũng đáp trả gã bằng những cái tru môi gợi tình khêu gợi. Sau thấy bọn bảo kê chửi bới dữ quá, hắn liền xua tay:
-Từ từ, mấy anh giai, bình tĩnh nào! Được rồi, được rồi! Cho tôi một tuần nữa! Các vị biết tôi mà! Tôi là thương nhân, là người làm ăn Đại Lộ, sao phải làm dữ vậy? Mấy người từng thấy tôi bán hàng mà? Đúng không? Một tuần nữa trả, nhé?
Bọn bảo kê hét:
-Không! Trả hôm nay, hoặc bỏ quả thận của mày lại đây!
Đại Bác rõ ràng là kẻ mồm to lá gan nhỏ. Gã hết lục lọi quần áo, moi vài đồng lẻ từ ví tiền rỗng tuếch, lại tìm chút cơ may trong đôi giày. Nhưng xui cho gã là chẳng có thêm đồng vàng nào rớt ra. Ngay lập tức Đại Bác nhìn quanh nhà chứa, ánh mắt dừng lại trên người Vô Phong. Gã xổ tới, tay phải bá vai tên tóc đỏ:
-Này chú em đẹp trai, có hai thùng vàng không? Cho ta mượn!
Vô Phong ngớ mặt, đầu lắc lắc. Nhưng hắn cảm giác tư thế này có phần quen quen, bèn đưa tay thủ trước ngực thì bắt gặp tay trái của Đại Bác đang lần vào túi áo mình. Vô Phong đoán không sai, Đại Bác đang cố tình móc túi hắn. Hồi hành nghề chôm chỉa, hắn xài đi xài lại chiêu thức này hàng trăm lần, cố nhiên biết được trò mèo của Đại Bác. Gã tóc vàng ngạc nhiên:
-Ồ, ồ! Cũng biết sao? Nhưng mà xin lỗi nhé, cho ta mượn hai thùng vàng, anh bạn trẻ!
-Chúng ta đâu quen biết gì nhau? – Vô Phong nói.
-Không quen biết thì mới sinh ra từ “kết bạn”. Dù sao thì chúng ta cũng thành bạn rồi, cảm ơn vì hai thùng vàng nhé!
Vô Phong không hiểu Đại Bác nói gì, chợt nhìn sang bên phải thì thấy tay gã đã thó ví tiền từ bao giờ. Đại Bác nhăn răng cười toe, đoạn móc hai tờ giấy bạc đưa cho đám bảo kê rồi ném lại ví tiền cho Vô Phong. Tên tóc đỏ cấm khẩu không nói nổi câu nào. Từ hồi hành nghề chôm chỉa, hắn chưa từng gặp chuyện bị người khác chôm chỉa mà chẳng hề hay biết. Gã làm thế nào mà hay vậy? – Hắn tự hỏi.
-Cảm ơn vì hai thùng vàng! – Đại Bác nói với tên tóc đỏ – Ta là thương nhân, có vài món hàng nho nhỏ muốn trao đổi, coi như là trả ơn cậu. Được chứ?
Có một quy tắc ngầm được lưu truyền khắp Đại Lộ Đỏ: không tin tưởng bất cứ ai. Quả thực ở nơi tập trung mọi thành phần thượng vàng hạ cám của lục địa Kim Ngân, niềm tin là con dao hai lưỡi mà lưỡi ngược luôn dài hơn. Nhưng bản năng cho Vô Phong biết gã trung niên tóc vàng này có thể tin được. Hắn ngửi thấy trên người Đại Bác một thứ mùi gọi là “đồng loại”. Suy nghĩ chán, Vô Phong ưng thuận lời đề nghị. Gã Đại Bác nhìn tên tóc đỏ một lượt, tay xoa xoa chiếc cằm lún phún râu:
-Ta ưng cưng rồi đấy nha!
Tên tóc đỏ rùng mình. Đại Bác mặc quần áo, trước khi ra cửa không quên hôn gió từ biệt những cô gái điếm. Trông bản mặt tiếc rười rượi của từng cô, rõ ràng họ chẳng hề muốn gã ra đi. Vô Phong nghĩ tay Đại Bác này đã đạt đến cảnh giới tình trường mà bao gã đàn ông mong muốn. Nhưng nguyên nhân chính do đâu? “Súng” khủng chăng? – Hắn tự hỏi.
Theo chân Đại Bác, Vô Phong rời khỏi nhà chứa. Hắn nhanh chóng nhận ra mình đang ở khu vực phía bên kia đường lớn thứ tư, dãy núi bên trái Đại Lộ nằm ngay sau lưng, còn dãy núi bên phải giờ xa tít mù tắp. Chợ rau mà hắn đang tìm nằm cách đây năm trăm mét theo hướng tây nam, gần mạn đường lớn thứ ba. Tại Đại Lộ, nếu không hỏi kỹ, người được hỏi sẽ chỉ đường tới khu nhà thổ thay vì chợ bán rau củ quả. Do thường xuyên tiếp đón thương nhân và giới giàu có, khu nhà thổ kiêm luôn chức năng của chợ lao động mà thành phần chủ yếu là kiếm sĩ thất nghiệp. Trước cửa mỗi nhà chứa đều có đám người ngồi la liệt, kiếm chống trên đất treo bảng giá thuê. Việc vận chuyển hàng trên sa mạc Hồi Đằng khá nguy hiểm, người chết không phải ít, thế nên khu chợ trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho thương nhân. Bởi vậy suốt từ sáng đến đêm, khu nhà thổ luôn luôn “sôi động” cả trong lẫn ngoài.
Đồng hành cùng Đại Bác là một trải nghiệm khó quên với Vô Phong. Trên quãng đường nửa cây số, tay trung niên tóc vàng khi dừng bước để chải tóc, khi cà kê với mấy cô gái điếm, lúc chạy de kèn vì gặp bọn bảo kê đòi nợ, báo hại tên tóc đỏ suýt ăn đòn oan. Hầu như nhà chứa nào cũng biết mặt Đại Bác, bọn chủ chứa xua đuổi gã như đuổi hủi, đám gái điếm lại hâm mộ gã cuồng nhiệt. Sau cùng, gã dẫn Vô Phong tới bãi nghỉ chân của giác cầu cạnh đường lớn thứ tư. Tại đây, những con giác cầu cuộn tròn mình trên cát nằm san sát nhau, từ trên cao nhìn xuống trông như một ruộng dưa gang khổng lồ. Phía sau mỗi con giác cầu là xe chở hàng phủ vải bạt. Bảo vệ bãi nghỉ chân này là đội kỵ sĩ cưỡi vân cước, họ liên tục đảo qua đảo lại nhằm đề phòng quân ăn trộm.
Hai người tiếp tục đi sâu vào trong bãi. Tại xe của Đại Bác có một thằng nhóc đội mũ đang ngủ gục trên thành xe. Nghe tiếng bước chân, thằng nhóc bất thình lình tỉnh giấc. Nó vươn vai ngáp dài rồi nói:
-Ngài về muộn! Mà… ai đây? – Thằng nhóc chỉ vào Vô Phong.
Đại Bác cười ha hả:
-Ông bạn mới của ta! Ê nhóc, còn lá thiết mộc không? Pha giùm ly trà cho ta và ông bạn này nhé!
Vô Phong theo Đại Bác bước lên xe chở hàng. Nội thất chiếc xe trông như một căn phòng riêng có đủ chăn nệm, một chiếc bàn nhỏ chân thấp, một chiếc máy chiếu ba chiều chạy bằng năng lượng mặt trời, dăm ba quyển sách vứt chỏng chơ trên sàn, hai chiếc kệ lớn dựng ở hai bên thân xe đựng hàng mớ tạp phí lù chai lọ, xương động vật cùng vài chậu trồng những loài thực vật uốn éo một cách dị hợm. Đại Bác kéo chiếc bàn ra giữa rồi mời Vô Phong ngồi đối diện mình, đoạn lục lọi cái gì đó trong ngăn kệ:
-Đây là “nhà” của ta. Cậu biết đấy, thương nhân mà, hiếm khi ở một chỗ! Chờ tí… cái danh thiếp đâu nhỉ? Vu Cách, Vu Cách! Danh thiếp của ta đâu? – Gã gọi thằng nhóc.
-Ở ngăn thứ ba ấy! Ông không biết sắp xếp đồ đạc à? Bày bừa ra đấy, tốn công tôi đi dọn!
Đại Bác gào lớn:
-Im mồm đi mày! Ta đang tiếp khách!
-Kệ mẹ ông! Đồ bừa bãi!
Gã tóc vàng cười sặc, đoạn quay sang nháy mắt với Vô Phong:
-Thằng cu này tinh ranh lắm! Mấy tháng trước ta đến Bạch Tu quốc và nhận nuôi nó từ một cô nhi viện. Nó thường giúp ta đánh xe và dọn dẹp phòng. Giờ nó thông thạo mấy ngăn kệ này hơn cả ta nữa!
Lục lọi một hồi, rốt cục gã cũng tìm thấy tấm danh thiếp rồi đưa cho Vô Phong. Theo tấm danh thiếp, Đại Bác đang làm chủ một phi đội chuyên săn bắt quái vật trên trời, còn được biết đến với cái tên “đạo chích không trung” và có mối làm ăn với Đại Lộ Đỏ. Một phần lượng thịt cao cấp bán ở khu thực phẩm do đội bay của gã cung cấp. Tuy chưa biết thật hay giả nhưng nhìn vào cuộc sống cá nhân của Đại Bác, thật khó mà tin gã không có tiền thanh toán nợ cho bọn nhà chứa. Vô Phong hỏi:
-Có thật là ông không có tiền không?
Đại Bác mỉm cười, đoạn lôi ra một ngăn kệ đầy xấp giấy bạc. Gã cười:
-Ta thích tự tạo khó khăn cho mình. Nợ chỗ này một tí, chỗ kia một tí, nợ người này, nợ người kia, họ sẽ quấy rầy ta và làm cuộc sống thú vị hơn. Đôi khi ta đốt hết tiền để tự đẩy mình vào cảnh sống dở chết dở, vậy sẽ vui hơn.
Vô Phong nghệt mặt trước lời giải thích của gã. Vừa lúc ấy thằng nhóc Vu Cách mang trà lên. Đại Bác nhận lấy rồi đẩy ly nước trà cho Vô Phong, sau đó lại chìa ra bao thuốc:
-Cậu hút thuốc chứ?
-Không, tôi không hút. – Vô Phong lắc đầu.
Gã tóc vàng liền mở ngăn kệ, lấy ra một miếng dẻo hình chữ nhật màu đen, to cỡ lòng bàn tay, trên bề mặt có vô số hạt nhỏ li ti óng ánh:
-Vậy kẹo cao su thì sao?
Tên tóc đỏ không từ chối. Đại Bác liền rút cán dao nhưng lần này nó bật ra lưỡi dao thật thay vì cây lược. Gã cắt một miếng kẹo nhỏ rồi đưa cho Vô Phong. Tên tóc đỏ nhai miếng kẹo, cảm nhận vị mát lạnh thổi lên tận óc còn cổ họng tràn đầy vị ngọt lịm. Đại Bác cười:
-Được chứ?
-Được! – Vô Phong gật đầu.
-Nói tới đâu rồi nhỉ? À, nợ nần! Nợ nần sẽ khiến ta làm việc và có trách nhiệm hơn. Không phải vậy sao? Cuộc sống mà không nợ ai điều gì thì thằng đấy nên chết quách đi là vừa.
-Vậy sao ông không kinh doanh ở nơi khác mà phải tới lục địa Kim Ngân làm gì?
Đại Bác đáp lời:
-Vì ở đây có sự “tự do”.
-Tôi không hiểu?
Gã tóc vàng mỉm cười, sau giảng giải:
-Cậu biết tại sao Kim Ngân nguy hiểm như thế mà hàng năm vẫn có hàng vạn gã chiến binh tới đây không? Tất cả vì “tự do”. Thời đại chiến binh qua lâu rồi, những kẻ chỉ biết đánh đấm giết chóc sẽ chẳng có giá trị gì cho xã hội, cùng lắm là chức danh Hộ vệ thánh sứ. Nhưng một gã chiến binh sẽ không bó buộc đời mình vào chức danh Hộ vệ thánh sứ bởi nếu làm thế, gã sẽ không có tự do. Chiến binh sinh ra để chiến đấu, nếu không được chiến đấu, tự do nào cho gã? Thế nên vô số kiếm sĩ, pháp sư, kiếm thuật sư hay thậm chí thánh sứ đổ về cái nơi hoang tàn này và tranh đấu với nhau. Mạnh được yếu thua, chiến đấu để không trở thành nô lệ của kẻ khác, chiến đấu để có danh tiếng, để trở thành Đầu Sói hay xa hơn là “bảy người mạnh nhất. Đó là “tự do” của nơi này. Vậy nên Kim Ngân chưa bao giờ hết hỗn loạn.
Vô Phong nheo mắt:
-Hình như ông đến từ nơi khác, không phải người Kim Ngân.
-Phải! – Đại Bác gật đầu – Ta không thích cái xã hội mà những kẻ siêu giàu và quyền lực được tự do, còn dân thường thì không. Ở Kim Ngân, sức mạnh quyết định tất cả và không ai có thể phàn nàn trước kẻ mạnh hơn. Vì vậy ta mới đến đây.
-Vậy ông có tự do chưa?
Gã tóc vàng cười lớn:
-Có rồi! Giờ ta có kẹo cao su để ăn vặt, có lược chải tóc để mình bảnh giai hơn trước những cô gái và có dao…
Gã ngừng nói. Vô Phong chăm chú lắng nghe, trong lòng nghĩ “có dao để xỉa bất cứ thằng nào”. Nhưng Đại Bác không bao giờ suy nghĩ kiểu lối mòn mà luôn làm người khác đi từ ngạc nhiên này tới bất ngờ khác:
-Có dao để cắt kẹo cao su. Vậy đấy!
Đại Bác cười đoạn mời Vô Phong uống trà. Gã tiếp lời:
-Hôm nay ta chẳng bán hàng, nếu không đã tặng vài miếng thịt thiên tặc rồi. Nhưng ở đây cũng có mấy món giá trị lắm, như khúc xương kia! Đó, nó đó! Bán cho khu dược phẩm của Đại Lộ, cậu sẽ kiếm được khoảng hai mươi thùng vàng. Lấy chứ?
Vô Phong lắc đầu. Hắn chẳng ham hố chuyện Đại Bác trả ơn bởi ngay từ đầu hắn không có ý định giúp. Gã tóc vàng nheo mắt:
-Cậu không đùa đấy chứ? Này, bất cứ thằng nào nhìn thấy mấy kệ hàng này của ta cũng phát điên lên vì sung sướng đấy. Đừng nói hai thùng vàng, chúng sẵn sàng bỏ hai trăm thùng vàng chỉ để sở hữu một trong mấy món đồ này. Nghĩ lại đi!
Tên tóc đỏ xua tay:
-Thực sự là tôi không cần. Cảm ơn vì cốc trà và… kẹo cao su. Món kẹo ngon thật đấy!
Đại Bác ngẩn mặt nhìn tên tóc đỏ, vẻ như đây là lần đầu gặp thể loại người như Vô Phong. Gã tóc vàng chợt nhếch mép cười, tay chống lên bàn, người rướn về phía trước:
-Ta ưng cưng rồi đấy nha! Này anh bạn, cậu nghĩ sao nếu gia nhập cùng ta, trở thành “đạo chích không trung”?
Vô Phong gãi gãi đầu:
-Tôi thấy cái nghề đó chẳng khác gì không tặc cả.
-Tầm bậy tầm bạ, ai bảo cưng thế?! – Đại Bác lớn tiếng – Khác nhau hoàn toàn đấy nhé! Nghe nè, không tặc ăn cướp phi thuyền của người, đạo chích không trung ăn cướp những con quái thú của thần thánh. Biển có ngư dân đánh cá, trời có đạo chích săn bắt quái thú. Biển có thuyền, trời có phi thuyền. Biển có “ngư trường”, trời có “điểu phận”. Biển càng sâu càng lắm chuyện ma quỷ, trời càng cao càng lắm truyền thuyết. Kẻ chết ở biển vùi xác dưới sóng lớn, kẻ chết ở trời tan thây bởi gió xé trên chín tầng mây. Biển thử lòng người gan dạ, trời đón chào kẻ tự do. Nào anh bạn, muốn đi cùng ta không?
Tên tóc đỏ ngây ngốc nhìn Đại Bác. Thể xác hắn tuy ở đây nhưng thần hồn đã vượt qua cả tầng mây ô nhiễm đương bao phủ sa mạc Hồi Đằng. Vô Phong chợt nhớ ngày quyết định rời khỏi chợ rác, khi ấy hắn đã nhìn lên bầu trời và khao khát vì nó. Đạo chích không trung ư? Vậy ngoài bọn thiên tặc hay vân cước ra còn bao nhiêu con quái vật? Còn thứ gì ẩn sau những tầng mây vô tận kia? – Hắn không biết. Và bởi không biết nên hắn phấn khích vô cùng.
“Phong, đang ở đâu thế? Mua được đồ chưa? Nghe tôi nói gì không thế?”.
Chiếc tai nghe bộ đàm vang giọng Mai Hoa cắt ngang dòng suy nghĩ của Vô Phong. Tên tóc đỏ quên khuấy rằng còn một đống rau củ quả chưa mua, hắn bèn hớp nốt ly trà rồi nói:
-Xin lỗi! Tôi có việc phải đi! Đừng để ý hai thùng vàng nữa!
Đại Bác nhún vai:
-Vậy hả? Được rồi, cầm lấy miếng kẹo cao su này, coi như là quà tặng! Dù sao ta vẫn nợ cậu, nếu sau này gặp lại, hãy đưa ra một điều kiện gì đó. Ta không quên đâu! Hoặc nếu cần, cứ gọi điện thoại trên tấm danh thiếp!
Vô Phong không hứng thú với những món hàng đắt cắt ra vàng của Đại Bác song chẳng từ chối miếng kẹo cao su. Gã nhận lấy, cảm ơn lần nữa rồi chạy như bay về khu chợ rau. Gã tóc vàng Đại Bác nhìn theo rồi lắc đầu cười như thể đang tiếc nuối. Đợi khi cái bóng Vô Phong đi khuất rồi, gã mới chui vào trong xe và gọi thằng nhóc giúp việc:
-Ê nhóc, chúng ta khởi hành nào! Vào trong ngủ đi, để ta đánh xe!
Thằng nhóc Vu Cách ngạc nhiên:
-Thật hả? Ông tốt vậy hả?
-Ờ. Nhưng nếu ta bắt gặp cô em xinh đẹp nào đấy thì chú mày đánh xe giùm nhé. Vậy nên hãy cầu xin Vạn Thế là không có gái đẹp xuất hiện đi.
Vu Cách đem cho Đại Bác chiếc mũ rộng vành màu đen cùng một cọng cỏ dài. Thằng nhóc làu bàu:
-Nếu biết Đạn Đạo, một trong bảy người mạnh nhất là kẻ háu gái thế này, tôi thà ở quách cô nhi viện cho rồi! Mà ông là ông chủ Đại Lộ Đỏ cơ mà, sao cứ phải nợ nần mấy nhà chứa làm gì vậy?
Gã tóc vàng cười ngất, sau đội mũ lên đầu, miệng ngậm cọng cỏ, tay vung roi điện điều khiển giác cầu. Con quái thú rùng mình tỉnh giấc rồi kéo xe vào đường lớn thứ tư. Trên đường, người ta thấy một gã tóc vàng đội mũ rộng vành vừa đánh xe vừa nghêu ngao hát thế này:
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy mây
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy trời
Đi đi, con của gió
Rồi ngươi sẽ thấy mình
Ta tự do
Ta không sầu lo
Ta sống tới ngày thế giới rực một màu đỏ…
Và rồi người ta lại nghe thấy từ chiếc xe vang lên giọng của một thằng nhóc:
-Im đi lão già! Tôi không ngủ được!
nguồn: Tàng.Thư.Viện
(*) ở Tâm Mộng, một trăm thùng vàng được tính = một thùng vàng.
Vu Cách từng xuất hiện ở Quyển 2 – Chương 37

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.