Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 13:




Tôi đóng cửa lại rồi thở phào và dựa vào cửa, nhấm nháp tiếp dư vị của những món ăn, của cuộc trò chuyện, và sự quan tâm săn đón của đàn ông mà tôi vừa nếm trải trong vòng ba tiếng rưỡi vừa qua. Tôi nhắm nghiền mắt lại, hương vị của rượu vang, của những chiếc bánh thịt cua như vẫn còn phảng phất đâu đây, và đặc biệt là mùi nước hoa cologne của Marc hòa quyện trong phần nội thất bọc da trong xe anh ấy.
Ðó là một buổi tối hoàn hảo, nhưng tôi thật sự nhẹ nhõm cả người khi Marc khước từ không vào nhà uống nước và tham quan ngôi nhà vào ban đêm, thay vào đấy anh đồng ý sẽ quay lại vào một dịp khác theo gợi ý của tôi. Tôi nghĩ cả hai chúng tôi chẳng ai còn sức lực nào mà đối mặt với Jack một lần nữa.
Tôi bước ra cài đặt báo trộm cho ngôi nhà rồi tắt đèn vốn vẫn còn được để sáng cho tôi, và mệt mỏi leo lên lầu. Khi ấy đã quá muộn so với giờ ngủ của tôi, và tôi bắt đầu cảm nhận được điều đó. Có âm thanh phát ra từ tivi cùng với ánh sáng mờ màu xanh nhạt trên lầu khiến tôi phải lần bước lên phòng khách trên ấy.
Tôi đứng ở bậc cửa trong chốc lát, và nhìn quan cảnh chung quanh. Phòng khách này, bên cạnh các đường viền trần nhà được chạm khắc tỉ mỉ công phu cùng chiếc bệ lò sưởi Adam, là một sự pha trộn đa dạng của những món đồ cổ từ thời thế kỷ mười tám và những món đồ lòe loẹt nhưng ít giá trị của thập kỷ năm mươi. Ðây chắc chắn phải là căn phòng mà ông Vanderhorst đã sử dụng nhiều nhất vì nhiều món đồ cổ đã được dọn riêng vào một góc phòng để nhường chỗ cho chiếc tivi và chiếc giá đỡ màu da cam, cũng như cái ghế bành quá khổ cùng với một chiếc tràng kỷ bọc nệm mà những nét hoa văn của nó theo ước đoán của tôi là ở vào khoảng năm một chín năm năm.
Là một người đàn ông ít có dịp tiếp xúc với phụ nữ ở thành phố Charleston này nên ông Vanderhorst không biết đến luật bất thành văn của Charleston về các món đồ nội thất vô giá được thừa kế từ gia đình: ai có được nó thì cứ dùng nó. Cách tốt nhất để nhận biết một người mới đến thành phố này (tức là bất cứ ai mà gia đình họ đã không cư ngụ ở đây từ thời Cách mạng Mỹ) là nhìn vào việc họ tránh không ngồi lên bộ tràng kỷ Chippendale đắt đỏ mà ăn thức ăn đông lạnh cho bữa tối và xem tivi.
Một chương trình phim chiếu lại vừa chạy ngang màn hình tivi, có những tiếng nói phát ra từ đấy pha lẫn với tiếng ngáy nhè nhẹ từ chiếc tràng kỷ. Cánh tay của Jack đang gác lên trán, và anh đang mỉm cười trong giấc ngủ, thay thế cho gương mặt điển trai của anh là gương mặt của một cậu bé con. Tôi cảm thấy huyết quản của mình đang chịu một sự tác động kỳ quặc nào đấy.
Nhẹ nhàng, tôi bước vào tắt tivi rồi quay lại kéo chiếc mền phủ giường bằng len đan khỏi chiếc ghế bành để đắp cho Jack phòng khi anh bị lạnh. Tôi đứng cạnh Jack với chiếc mền siết chặt trong tay thì bỗng nhận ra rằng nhiệt độ trong phòng vừa giảm đột ngột và có một sự hiện diện của ai khác đang lởn vởn đâu đấy phía sau đầu Jack. Quá khiếp hãi, tôi cứ nhìn trân trối khi hình dáng của người phụ nữ trẻ từ từ hiện hình ngay trước mặt tôi, nhưng không trở thành một con người đầy đủ mà trông giống như cái bóng trong hồ bơi hơn. Tôi có thể nhìn rõ tất cả các nét của cô ta, nhưng tôi lại cũng có thể nhìn thấy những gì phía sau cô ấy, và tôi có một ý nghĩ thật kỳ quặc là nếu tôi cứ nhìn chằm chằm vào cô ta, tôi sẽ có thể nhìn thấy chính mình trong ấy.
Bóng ma khum lòng bàn tay lại, rồi chạm nhẹ vào nhân trung của Jack bằng những ngón tay đang gấp lại của mình. Tôi thấy nụ cười của anh rạng rỡ hẳn lên khi anh đưa tay lên mặt như thể để bắt lấy bàn tay đang vuốt ve làn da của mình.
Rồi một giọt nước bé tí rơi lên trên má Jack, trong một thoáng tôi nghĩ rằng mái nhà bị dột nhưng rồi nhận ra rằng người phụ nữ ấy đang nhỏ lệ.
Tôi muốn rời khỏi căn phòng, để chối bỏ những gì tôi đang nhìn thấy, nhưng tôi biết rằng mình không thể. Mẹ đã từng nói với tôi rằng tôi có thể bỏ đi, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi sẽ quên được. Bàn tay của người phụ nữ ấy giờ đây đang ôm lấy khuôn mặt của Jack, và tôi tiếp tục quan sát khi Jack giơ bàn tay lên và áp lên bàn tay cô ta, rồi giữ bàn tay ấy sát vào người mình. Một nỗi buồn thương bỗng dâng trào và vỡ òa trong tôi khiến tôi muốn cúi gập người lại vì nỗi đau ấy, nhưng tôi lại không thể. Tôi thật sự đang bị thôi miên bởi những gì người phụ nữ này đang cho tôi thấy, và tôi bắt đầu nghe tiếng cô ta.
Tôi chưa bao giờ hết yêu anh ấy. Chưa bao giờ hết yêu. Những ngôn từ này thật sự không được nói ra thành tiếng; chưa bao giờ. Tôi nghe chúng trong đầu mình, vang vọng và trống rỗng như một đồng xu bằng đồng lắc lư trong một chiếc cốc bằng kim loại. Hãy nói với anh ấy tôi vẫn còn yêu anh.
Tôi run lẩy bẩy, lặng nhìn khi hơi thở của mình cứ cuộn lại xung quanh. Hình ảnh người phụ nữ ấy bắt đầu mờ dần, và tôi đưa tay ra về phía cô ta nhưng tôi chẳng cảm nhận được gì ngoài bầu không khí trống rỗng. Tôi ngửa lòng bàn tay lên và bắt được một giọt nước mắt, cái ướt ấy châm chích bàn tay tôi rồi lại biến mất.
Tôi cứ đứng đấy một hồi lâu với chiếc mền len vẫn còn trong tay, và sự thắc mắc chưa được nói ra vẫn đang bị đóng băng trên đầu lưỡi của mình. Người ấy là ai?
Jack ngọ nguậy, dụi hai tay lên mặt rồi mở mắt, anh nhìn chằm chằm vào tôi. “Váy đẹp nhỉ,” anh nói rồi ngồi dậy, tóc tai bù xù trông thật đáng yêu, “nhưng tôi thề là đã thấy nó trước đây rồi.”
Tôi thả vội cái mền xuống sàn, chẳng muốn bị bắt gặp đang định làm một việc có thiện ý cho anh. Tôi nhăn nhó, cảm thấy mình lạc giọng. “Anh thức chờ tôi hay đấy nhỉ.”
Anh thả chân xuống sàn rồi nhăn mày khi nhìn đăm đăm vào hai bàn tay mình. Rồi anh xoa hai tay vào nhau như thể định làm khô chúng vậy. “Tôi vừa có một giấc mơ kỳ lạ hơn bao giờ hết...” Anh ngơ ngẩn một hồi trước khi quay lại nhìn tôi, và rồi anh lấy lại được nụ cười chết người của mình. “Thế, hắn ta có hôn tạm biệt cô không?”
“Ai?”
Jack chỉ nhướn một bên mày.
“Ðó không phải là việc của anh.”
Jack lại ngồi xuống. “À, vậy thì hắn đã không hôn cô. Nhưng đừng lo. Cô sẽ tìm được người khác thôi mà.”
Tôi khoanh tay trước ngực. “Anh ấy sẽ đến chơi vào Chủ Nhật để tham quan ngôi nhà và đưa tôi đi ăn trưa.”
“Thế à,” anh nói. Mắt anh châu lại, tôi nghĩ anh vừa định nói thêm gì đấy. Nhưng không, anh chỉ đứng lên. “Thôi thì, bây giờ cô đã về đến nhà thì tôi lại đi lên gác mái vậy. Chúc ngủ ngon.”
Tôi đi theo anh ra ngoài hành lang và hướng về phòng ngủ của mình thì Jack lại nói tiếp. “Tôi nghĩ là mình đã tìm được tất cả các album ảnh của Louisa. Nếu cô muốn mang chúng xuống dưới lầu để xem cho kỹ hơn thì tôi sẽ giúp cô mang xuống, như thế thì mình chỉ phải đi lên xuống hai bận thôi.”
Tôi ngập ngừng trong giây lát. “Ðược thôi. Ðể tôi đi thay quần áo trước đã.”
Anh cúi chào tôi một cách trịnh trọng, rồi hướng về cầu thang dẫn lên gác mái. Tôi chạy vào phòng mình và tròng vào người bộ pyjama, dép lê và áo choàng ngoài, rồi chạy quáng quàng xuống nhà bếp để tìm đôi găng tay cao su màu vàng dùng để rửa chén của bà Houlihan và mang găng vào.
Tôi đứng trên bậc thang cao nhất dẫn lên gác mái và nhíu mắt nhìn săm soi vào khoảng tối được chiếu sáng lờ mờ bởi một bóng đèn duy nhất, vốn được nối với sợi xích nhỏ dùng để giật xuống khi tắt hoặc mở bóng đèn.
“Ô là la!”[6] Jack nói với giọng điệu châm chọc và nhìn tôi. “Chắc là tôi đã bỏ sót trang ấy trong ca-ta-lô của hãng Victoria’s Secrets mất rồi. Mà công nhận găng tay cao su đúng là một điểm nhấn quan trọng cho cả bộ trang phục này đấy.”
[6] Nguyên bản: “Be still my heart” - Một cách nói đùa của đàn ông để tỏ ý thán phục khi nhìn một phụ nữ hấp dẫn. Nghĩa đen: Tim tôi ơi hãy bình tĩnh đi nào.
“Tay tôi lạnh.”
Anh nhìn tôi một hồi lâu. “Mellie, nhiệt độ bên ngoài hiện giờ đang là hai mươi bốn độ rưỡi, và đây là nơi không có máy lạnh. Trời chẳng lạnh chút nào.”
Tôi né tránh cái nhìn soi mói của anh rồi len người vào cái gác mái lộn xộn đồ đạc. “Bàn tay và bàn chân tôi máu lưu thông không được tốt lắm.” Tôi nói và cầm lên cây gậy mà Sophie tìm thấy trong lần đầu đến thăm ngôi nhà rồi đọc to câu đố được khắc trên ấy. “Tôi đi bằng bốn chân vào buổi sáng, hai chân vào buổi chiều tối và ba chân vào ban đêm. Tôi là cái gì?” Tôi nhìn Jack chờ đợi.
“Con người,” anh trả lời ngay mà không phải dừng lại để suy nghĩ.
“Ít ra anh cũng có thể giả vờ là mình bị bắt bí chứ?” Tôi dựng lại cây gậy cho dựa vào tường. “Bà Houlihan có nói là gia tộc Vanderhorst vốn nổi tiếng về sự yêu thích các câu đố của họ đấy.”
“Thật thế à?”
Tôi nhìn Jack và tò mò về giọng điệu ấy của anh, nhưng anh đã quay lại lục lọi một cái hộp dường như là đựng giày cũ. Tôi nhìn chung quanh mình với cơ man nào là những chồng sách, giấy má, rương hòm, quần áo cũ, và bàn ghế. Tấm vải bạt màu xanh da trời dùng để che cái lỗ thủng trên mái nhà rung phần phật trong gió, thảo nào tôi cứ thấy phân bồ câu hầu như ở khắp nơi, rơi vãi cả trên con trâu thuộc khổng lồ vốn chiếm cả một phía của căn gác mái khá lớn này. Mùi ẩm mốc, bụi bặm pha lẫn với không khí ẩm bên ngoài quá ngột ngạt hầu như không thở nổi.
Jack nhìn theo hướng nhìn của tôi. “Tôi nghĩ tôi và cô nên dọn toàn bộ mớ đồ này ra khỏi đây càng sớm càng tốt, trước khi chúng bị hư hại thêm. Dù gì thì chúng ta vẫn sẽ phải làm việc này trước khi họ sửa lại mái nhà, chi bằng ta cứ làm ngay bây giờ cho xong việc.”
Tôi gật đầu. “Chúng ta có thể phân loại theo thứ tự chất lượng những thứ vừa tìm được rồi sau đó nhờ ba mẹ anh đến giúp xem mấy thứ bàn ghế này là loại gì.”
Jack bước đến một chiếc rương đặt gần cánh cửa với nắp rương đang mở. “Tôi nghĩ điều duy nhất giúp mấy cuốn album và máy chụp ảnh còn nguyên vẹn thế này là vì chúng được cất trong rương. Không bị dính phân chim ấy mà.”
Tôi ngó vào bên trong rương và thấy có bảy cuốn album khác giống hệt cuốn mà tôi đã xem qua. Thậm chí khi đeo găng, tôi vẫn ngần ngại không muốn đưa tay vào và chạm vào chúng. Cái cảm giác thoát xác của tôi cách đây mấy ngày thật sự không phải là thứ mà tôi thiết tha muốn lặp lại. Thật không may, tôi biết rằng mình chẳng có lựa chọn nào khác.
“Xem cái này này,” Jack gọi tôi từ phía bên kia của gác mái. Anh mở một chiếc rương cao, phơi bày ra hàng mét dây ren, lụa, và lông vũ. “Nhìn cứ như một cửa hàng bán đồ hóa trang thời những năm hai mươi trong đây vậy.”
Tôi vui mừng tạm đặt mấy cuốn album đang xem dở lại rồi bước đến chỗ Jack. Những chiếc hộp đựng mũ bị nhồi nhét trên một cái kệ treo bên trên những chiếc váy, còn những đôi giày cao gót bằng lụa bóng có đính những chiếc khóa thì nằm xếp lớp bên dưới. Tôi chạm đôi tay mang găng của mình vào một chiếc váy lụa màu anh đào đã phai màu, đường viền chân váy đã đen vì nấm mốc. “Chắc chắn đây là những chiếc váy của Louisa,” Tôi nhẹ nhàng nói.
“Có lẽ cô nói đúng,” Jack nói rồi kéo cổ áo của chiếc váy ra đằng sau và tìm thấy nhãn hiệu thêu tay: May độc quyền cho Louisa Gibbes Vanderhorst. Rồi anh mở một ngăn kéo nhỏ bên trong chiếc rương ấy. “Nhìn bên trong đây này. Toàn bộ khăn mặt bằng ren có thêu tên viết tắt của bà ấy và cả vớ lụa nữa đây này.” Anh sục tay vào bên trong và nắm một nắm đầy những cánh hoa hồng đã khô giòn. “Có vẻ như có ai đó đã nhét những thứ này vào đây để giữ cho quần áo được sạch sẽ thơm tho.” Anh đặt chúng lại vào bên trong ngăn kéo rồi chun mũi khi mùi quần áo mục nát lẫn mùi ẩm mốc thoảng qua chúng tôi. “Giống như kiểu mất bò mới lo làm chuồng ấy.” Rồi anh nhìn chăm chăm vào chiếc rương tối. “Cô biết không, nếu tôi là ông Vanderhorst và vợ tôi chạy theo một người đàn ông khác thì tôi sẽ đốt sạch toàn bộ đồ đạc của cô ta. Hay ít ra tôi cũng mang đi cho hết. Tôi nghĩ là mình sẽ không để dành tất cả mọi thứ giống như một nhà tưởng niệm cho cái người ấy.”
“Biết đâu ông ấy đã nghĩ rằng vợ mình sẽ quay về.”
Jack nhìn tôi, đôi mắt anh buồn, và tôi tự hỏi không biết có phải anh đang nghĩ đến người phụ nữ mà anh đã từng muốn cưới hay không. “Tôi thì không nghĩ thế. Ông ấy đã cho mang toàn bộ cái rương ấy lên đây, cho khuất mắt. Như thể ông ấy biết rằng bà ấy đã ra đi vĩnh viễn, nhưng ông ấy lại không chịu nổi việc phải tống khứ toàn bộ những thứ làm cho ông nhớ đến bà ta.” Rồi anh lắc đầu. “Không đâu, ông ấy biết rằng vợ mình sẽ không bao giờ quay về. Nhưng ông cũng không bao giờ nguôi nhớ bà ấy.”
Tôi bỗng nhớ đến bóng ma tôi vừa thấy bên cạnh Jack và hồi tưởng lại những gì cô ta đã nói khi nãy. Tôi chưa bao giờ hết yêu anh ấy. Chưa bao giờ hết yêu. Và sau đó, ngay trước khi cô ta biến mất, Hãy nói với anh ấy tôi vẫn còn yêu anh. Trong chốc lát, tôi tự nhủ không biết mình có hoàn toàn hiểu lầm hay không, liệu đó có phải là Louisa và cô ta đã hoàn toàn không nói về Jack. Nhưng mà trông cô ta chẳng giống Louisa trong những bức ảnh của bà ấy mà tôi đã xem, và cô ta cũng hoàn toàn khác với người phụ nữ mà tôi đã thấy trong vườn, và rồi khi nhìn cô ta với Jack, tôi cảm nhận rằng nỗi sầu khổ và tình cảm ấy là dành cho anh. Tôi có cảm giác những giọt nước mắt ấy là cô dành cho Jack và anh cũng đã khóc với cô ấy, mặc dù anh không hay biết gì về việc này.
Tôi ngắm nghía khuôn mặt Jack trong cảnh tranh tối tranh sáng với chiếc bóng đèn duy nhất, nhìn những nét đẹp như tạc tượng ấy cùng với đôi mắt buồn, lắng nghe tiếng ngôi nhà đang thở, và rồi tôi tự kết luận rằng mình sẽ không chỉ cần tìm một người phụ nữ mất tích, mà là hai người. Tôi tự nhủ việc này không phải là để sửa chữa những sai lầm của quá khứ, hay ban ba cho một ông già lời thỉnh nguyện cuối cùng trước khi chết; mà đây là tất cả những gì tôi có thể làm để những người chết kia để cho tôi yên. Nhưng mà, tôi thậm chí còn không thể tự lừa dối mình được nữa là.
“Anh còn thương nhớ cô ấy không?” Tôi hỏi.
Anh nhìn tôi với cái nhìn thật sắc. “Thương nhớ ai?”
“Emily.”
Anh không ngoảnh nhìn đi chỗ khác. “Làm sao cô biết về Emily?”
“Từ mẹ anh.”
Anh yên lặng trong một lát. “Bà ấy đã kể cho cô nghe những gì?”
“Rằng cô ấy đúng nghĩa là đã rời bỏ anh ngay trước bàn thờ. Rằng cô ấy đã chuyển đến New York, và rằng anh chưa bao giờ nghe tin tức gì từ cô ta nữa.” Tôi cắn môi, không rõ sẽ nói tiếp những gì. Cuối cùng, tôi nói, “Mẹ anh có kể rằng Emily là một ký giả làm việc cho tờ báo Người đưa tin và rằng hai người đã gặp nhau lần đầu khi anh đang tìm tòi nghiên cứu để viết sách.” Tôi cảm thấy mình đang đỏ mặt và hy vọng anh không nhìn thấy trong ánh sáng mờ.
Jack quay mặt đi, đối diện với một chồng sách mà trông như chúng vừa được lôi ra từ những khu vực khác của căn gác mái rồi được chất lên đấy, vì trông chúng sạch bụi đến khó tin.
“Mẹ tôi là một người phụ nữ tuyệt vời, nhưng bà ấy đúng là cần phải học thêm về việc khi nào được phép chia sẻ thông tin và khi nào thì không được. Bà ấy có còn mách lẻo gì về những câu chuyện đáng xấu hổ khác như khi tôi còn là một đứa bé vừa chập chững biết đi và thích chạy lòng vòng chỉ với chiếc mũ cao bồi, bao đeo súng, giày bốt, và không vận gì khác trên người?”
Tôi nhìn chăm chú vào sau gáy anh, là nơi có những lọn tóc xoăn sậm màu làm tôi liên tưởng anh chắc chắn đã từng là một cậu bé con thật đáng yêu, và cũng làm tôi nhớ lại hình ảnh của anh khi đang ngủ, là lúc anh chẳng phải phòng vệ gì cả và không hề hay biết có người đang ngắm nhìn mình. “Thế, anh vẫn còn chứ?” Tôi gặng hỏi.
Anh không quay lại, cũng chẳng hỏi tôi đang nói về cái gì. Cuối cùng, anh trả lời, “Ừa, có lẽ là tôi vẫn còn. Tôi có giữ một cái hộp đựng nhẫn và chiếc lược chải tóc của cô ấy, cho nên tôi nghĩ là tôi chắc phải còn thương nhớ cô ấy lắm. Nhưng tôi cho rằng cô ấy sẽ không bao giờ quay về.”
Bằng một giọng khẽ khàng, tôi tiếp lời anh, “Tôi cũng nghĩ cô ấy sẽ không quay về đâu.”
Tôi đã bước đến trước mặt anh và chồng sách, và có lẽ là anh đã không nghe vì khi xoay nhanh người lại, anh có vẻ giật mình khi thấy tôi đang đứng quá gần như thế. Anh nhìn chằm chặp vào mắt tôi với đôi mắt mở thật to. Rồi anh nắm lấy hai cánh tay tôi và kề mặt gần sát vào mặt tôi. “Ðiều gì khiến cô nói như thế? Có phải cô biết cái gì đó không?” Hai tay anh siết chặt hơn một chút nữa. “Cô đã nhìn thấy những gì?”
Tôi quay mặt ra chỗ khác. “Chỉ là cảm giác thôi.” Tôi nuốt nước bọt. “Sau khi nói chuyện với mẹ anh xong thì tôi nhận ra rằng Emily có lẽ đã ra đi không trở lại.”
Anh buông rơi hai tay. “Có lẽ là thế. Nhưng thật khó mà tin rằng người mà mình dự định cùng chung sống trọn đời lại có thể biến mất khỏi đời mình như thế.”
“Vậy là anh không biết điều gì đã xảy ra cho cô ấy à?”
Anh lắc đầu. “Không có đến một lời. Thậm chí đến sếp cô ấy ở tòa soạn báo cũng chẳng biết chính xác cô ấy đã đi đâu và tại sao cô ấy lại bỏ đi.”
Tôi rất muốn cho anh biết những gì tôi đã thấy, và chuyển giao thông điệp mà tôi đã nhận được. Nhưng nếu một người trong thời thơ ấu đã từng phải chối bỏ những gì mình đã nghe hoặc nhìn thấy chỉ để thoát khỏi những lời trêu chọc tàn ác của bọn bạn trong giờ ra chơi, thì giờ đây thật khó mà tin rằng người lớn sẽ không có thái độ tương tự như bọn trẻ ấy. Và bên cạnh đó, tôi đã tự nhủ với chính mình, tôi không có bằng chứng nào cho thấy người phụ nữ tôi nhìn thấy chính là Emily.
Jack đứng xê ra như thể anh nôn nóng muốn thay đổi đề tài đang nói, và tôi được dịp nhìn rõ những cuốn sách đang chất đống trước mặt anh. Tôi cầm cuốn sách nằm trên cùng lên rồi nhìn và đọc to đầu tựa. “Những mật mã của Cuộc Nội Chiến.” Rồi tôi cầm lên cuốn tiếp theo. “Cuộc phiêu lưu của những hình nhân nhảy múa, Sherlock Holmes.” Tôi quay sang Jack. “Anh tìm thấy những cuốn này từ đâu thế?”
Anh không trả lời ngay. “Tôi thấy chúng nằm rải rác đây đó trong căn gác này. Một số cuốn thì hơi bị mốc nhưng đa số vẫn còn trong tình trạng tốt. Tôi nghĩ là chủ nhân của những cuốn sách này chắc hẳn đã rất thích tìm hiểu về mật mã.” Anh lại xê dịch đến gần tôi hơn và lấy đi hai cuốn sách từ tay tôi. “Ðây phần nào cũng là sở thích của tôi đấy, và tôi đã hy vọng cô sẽ cho phép tôi đọc mấy cuốn sách này trong những ngày tôi ở đây.”
“Khi nói đến mật mã, có phải ý anh muốn nói đến những ký hiệu bí mật?”
“Hầu như là thế. Trong một số đầu sách trước đây của mình, đặc biệt là những cuốn có liên quan đến tình báo gián điệp, tôi đã học được rất nhiều về các mật mã và cách giải mã. Một dạng thú tiêu khiển của nam giới ấy mà, tôi nghĩ thế.”
“Ờ, anh cứ thoải mái mà đọc sách đi. Nhưng nếu anh mang chúng xuống nhà dưới thì nhớ đừng làm rơi vãi nấm mốc lên bàn ghế nhé.”
“Dạ được,” anh nói rồi đặt trở lại những quyển sách ấy lên trên chồng sách.
Tôi tiếp tục lục lọi, nhấc lên các tấm phủ đầy bụi để xem có gì ở bên dưới và tìm thấy không chỉ các món đồ nội thất cổ trang nhã mà còn tất tần tật bất cứ món gì, từ những bộ quân phục thời Nội Chiến đã bị mối ăn cho đến hàng chồng hàng đống các tạp chí cũ và những tờ báo đã khô giòn trong suốt một trăm năm mươi năm qua. Có một chiếc bàn cổ bằng gỗ sồi nằm hơi khuất sau con trâu thuộc, do đó tôi phải nép người chen vào giữa mới có thể săm soi chiếc bàn kỹ hơn. Tôi mở ngăn kéo to chính giữa ra và ngạc nhiên vì nó mở ra thật dễ dàng, như thể có ai đó đã đến đấy trước tôi vậy. Tôi lần tay vào và lôi ra một chồng giấy tờ.
Jack nói với từ sau lưng tôi. “Phong cách đồ gỗ nội thất ở đây thật khác biệt với những món đồ gỗ khác trong ngôi nhà này nên tôi thiết nghĩ có lẽ chúng đến từ đồn điền của gia tộc Vanderhorst.”
Tôi gật đầu, mắt đọc lướt qua những trang tài liệu này trong khi tay lật nhanh qua các trang giấy. “Anh có nhớ tên của đồn điền ấy không?”
“Magnolia Ridge.”[7]
[7] Luống Hoa Mộc Lan
Mắt chúng tôi giao nhau. “Có lẽ anh nói đúng đấy. Hầu hết các loại giấy tờ này đều là danh sách mua hàng cho nông trại mỗi khi họ đi vào thị trấn, cũng như các biên nhận mua muối và những súc vải. Nhưng cái này thì” - tôi lôi ra một tờ tài liệu nằm giữa chồng giấy tờ này - “trông giống như giấy chuyển quyền sở hữu nông trại.”
Jack tiến đến và trong cơn vội vã, anh vấp ngã vào một cái đầu hươu. Anh đứng cạnh tôi. “Cho tôi xem với?”
Tôi đưa cho anh tờ tài liệu ấy và anh nghiêng nó về phía bóng điện để ánh đèn chiếu vào. Tôi săm soi nhìn qua vai anh, để ý rằng ngày tháng in ở trên cùng tờ giấy ghi ngày 1 tháng 11 năm 1929. “Ðây là năm mà thị trường chứng khoán sụp đổ đúng không?”
Jack gật đầu, mắt anh vẫn lướt qua những dòng chữ in nhỏ và nhìn chăm chú vào các chữ ký ở phần cuối của trang giấy.
“Cái gì thế?” Tôi hỏi.
“Ðó là chứng thư của nông trại Magnolia Ridge. Nhìn vào chứng thư này thì dường như ông Vanderhorst đã chuyển nhượng quyền sở hữu nông trại này lại cho vợ ông ấy, Louisa.”
Tôi cũng liếc nhìn vào những chữ ký ở phần cuối của chứng thư, tự nhủ sao mà một trong những chữ ký ấy trông thật quen thuộc, nhưng rồi Jack đã nhét nó trở lại vào xấp giấy tờ và những ý nghĩ của tôi lại bị phân tán bởi những lời Jack nói. “Tại sao ông ấy lại làm như thế? Họ đã là vợ chồng, và mặc dù tôi không rõ lắm về luật lệ thời ấy nhưng tôi đoán chắc rằng những gì thuộc sở hữu của bà ấy thì sẽ thuộc về ông ta.”
“Thế thôi. Nhưng đôi khi người chồng cũng sẽ chuyển nhượng tài sản cho vợ mình hoặc người thân trong họ nhằm trốn thuế. Hoặc là...” Anh im bặt, như thể đang chần chừ không muốn tiết lộ điều gì đấy.
“Hoặc là gì?” Tôi gặng hỏi.
“Hoặc là để tránh việc tài sản bị nhà nước tịch thu, vì các hành động phi pháp chẳng hạn.”
“Hành động phi pháp? Gia tộc Vanderhorst ấy à?”
Jack cười. “Ôi trời, đúng là lính mới, cô còn phải học hỏi thêm nhiều thứ lắm. Cứ gọi tôi là sư phụ mỗi khi tôi khai trí cho cô nhé.”
Tôi mở tròn mắt. “Khuya rồi. Anh làm ơn cứ nói cho tôi biết để tôi còn đi ngủ ạ.”
Anh nhìn tôi một cách kiên nhẫn. “Mellie, sự kiện trọng đại nào đã diễn ra trong những năm cuối thập kỷ hai mươi và đầu những năm ba mươi?”
Tôi suy nghĩ một hồi lâu. Thật lòng là sau khi tôi lên sáu tuổi thì môn lịch sử không còn có ảnh hưởng quan trọng gì đến tôi nữa, và tôi thường chỉ vừa đủ sống sót qua các lớp lịch sử vì tôi chỉ học sao cho đạt vừa đủ điểm đậu cho các kỳ thi và rồi vui vẻ quên hết những gì đã học. “À, khi ấy thì các cô gái bắt đầu để lộ phần mắt cá chân và nhảy vũ điệu của Charleston. Và anh phải khen tôi vì tôi còn biết về vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán nữa nhé.” Tôi mỉm cười với anh, tự hào vì đã đào ra được những điều bị chôn sâu ấy từ bộ nhớ của mình.
“Thế Ðiều sửa đổi thứ mười tám của Hiến Pháp hoặc Ðạo luật Volstead nghe có quen không?”
“Thật vui là không hề.” Tôi cười.
“Ý tôi đang nói đến đạo luật cấm sản xuất và bán rượu ấy. Thật ra tôi đã có đến đồn điền Magnolia Ridge - trước khi ông Longo mua nó - và tôi có thấy những tàn dư của vài cái lò chưng cất rượu. Rõ ràng ba của Nevin Vanderhorst là kẻ buôn rượu lậu. Không phải Charleston thời ấy đàng hoàng mà tuân thủ theo đạo luật này đâu, nhưng sự thật là người ta kiếm được rất nhiều tiền trong việc cung cấp rượu cho những hạt và tiểu bang lân cận.”
“Xin lỗi nếu tôi không có hứng thú về bài học lịch sử này nhé. Hồi đó tôi đã thấy chẳng cần thiết phải học lịch sử thời còn đi học, thì bây giờ tôi thậm chí càng thấy ít có lý do cần phải biết lịch sử hơn. Toàn là về những người đã chết cả thôi.”
Jack nhướn một bên mày rồi quay lại đọc kỹ tờ tài liệu một lần nữa. “Tôi cứ nghĩ là cô biết về việc này chứ.”
Tôi thở hồng hộc. “Xin lỗi ạ?”
Vẫn không nhìn tôi, anh nói tiếp. “Cô không thích những ngôi nhà cổ vì dường như chủ nhân cũ của chúng thường là những con người luôn nuối tiếc quá khứ, và cô thà nhìn thấy bất động sản được dùng vào những việc có ích hơn chẳng hạn như một bãi đậu xe - trừ phi cô có thể bán ngôi nhà cổ ấy cho một thằng cha căng chú kiết tội nghiệp nào đó, người chẳng hề biết mình mua để làm gì, còn cô thì kiếm được khối tiền. Do đó tôi chẳng hề ngạc nhiên khi thấy cô đặt lịch sử ngang hàng với những người đã chết, như một thứ chẳng còn quan trọng gì nữa. Và tôi chắc chắn rằng việc ấy cũng chẳng liên quan gì đến việc lẽ ra cô đã được thừa kế ngôi nhà ở đường Legare của gia đình bên mẹ cô và thay vào đấy, bà lại bán nó đi cho những người ngoài sau khi ba mẹ cô ly thân.”
Sự tổn thương cùng xấu hổ trong tôi đã nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ. “Có phải ba tôi đã kể cho anh mẩu tin quý giá ấy không?”
“Ông ấy chẳng cần phải làm thế. Mẹ tôi đã kể cho tôi nghe sau lần tôi và cô ghé thăm bà ấy lần trước.” Anh thả tờ tài liệu ấy trở lại vào ngăn kéo và đóng lại. “Thôi xem như chúng ta huề vậy,” anh lặng lẽ nói.
“Cứ như vậy đi,” tôi đáp, cảm thấy cơn mệt mỏi bỗng ập đến. “Tôi sẽ cầm hai cuốn album khi đi xuống. Chúng ta không cần phải mang hết đống album này xuống dưới trong đêm nay, nhưng nếu anh có thể giúp mang hai cuốn album xuống và đặt chúng bên ngoài cửa phòng tôi sau khi anh đã xong ở trên đây thì tôi sẽ rất cảm kích về việc ấy.”
“Chắc chắn rồi,” anh nói trong khi tôi gom hai cuốn album đặt lên cánh tay mình.
Tôi thẳng người lên rồi nói, “Nhân tiện, anh đã có dịp in ra mấy tấm ảnh chụp mặt trước chiếc đồng hồ cổ hay chưa?”
Trong một thoáng, nhìn vào những gì biểu lộ trên gương mặt anh thì tôi nghĩ rằng anh không rõ tôi đang nói về cái gì. “À, đúng rồi. Không. Tôi chưa có dịp làm việc ấy. Máy ảnh của tôi không phải là loại kỹ thuật số nên tôi phải mang cuộn phim ra tiệm để rửa ảnh. Tôi sẽ cho cô biết khi nào tôi làm xong.” Rồi anh xoa hai tay vào nhau. “Thế, kế hoạch cho ngày mai gồm có những gì?”
“Sáng mai tôi phải vào văn phòng vì có vài cuộc hẹn gặp, nhưng tôi sẽ quay lại trước mười hai giờ trưa. Tôi đã in vài bản kế hoạch làm việc cho mọi người và cũng đã gửi email cho họ - riêng bản của anh thì tôi đã đặt trên giường anh để sáng mai khi thức dậy thì anh không phải lúng túng vì không biết mình phải làm gì.”
“Tôi thường hay ngơ ngác khi thức giấc vào buổi sáng, nhưng chắc chắn là bản kế hoạch làm việc của cô sẽ giúp tôi quay về thực tế. Cám ơn nhé.” Anh cười rạng rỡ với tôi. “Cô thấy không, ba cái việc phục chế nhà cổ này hứa hẹn sẽ có nhiều cái vui lắm đấy.”
Tôi cười khìn khịt. “Ừa, vui giống như khi đi lấy tủy răng ấy.” Rồi tôi chuyển mấy cuốn album qua cánh tay kia và nói “Mai gặp lại nhé.”
“Mong lắm lắm,” anh trả lời, giọng ẩn chứa một nụ cười.
Tôi cười nhạt thay cho câu trả lời, sợ rằng nếu tôi nói điều gì ra thì anh sẽ phát hiện trong giọng nói của tôi rằng tôi có lẽ cũng mong như thế.
“Với lại, trông cô thật dễ thương khi đỏ mặt đấy.”
“Tôi đâu có đỏ mặt,” tôi lắp bắp.
“Có chứ, khi nãy cô có đỏ mặt mà. Ðó là lúc cô nói về Emily và về hoàn cảnh chúng tôi gặp nhau khi tôi đang tìm tài liệu cho quyển sách định viết. Khi ấy cô đỏ mặt đấy. Hay đó chỉ là một cơn bốc hỏa chăng?”
Tôi xốc lại chồng album trên hai cánh tay mình rồi quắc mắt nhìn anh. “Tôi chưa già đến thế đâu nhé.”
“Thế thì đó chắc hẳn phải là sự đỏ mặt rồi,” anh lại nói, và lần này tôi có thể nghe tiếng cười vang trong giọng nói ấy.
Tôi cố cười gượng. “Thôi tạm biệt nhé, Jack.”
Tôi quay về hướng cầu thang, và trước khi tôi tiến đến bậc đầu tiên, anh nói, “Chúc ngủ ngon, Melanie.”
Ðầu lưỡi của tôi suýt nữa thì bật ra câu trả miếng yêu cầu anh không được gọi tôi bằng tên thân mật như trước, thế là tôi giả vờ ho để che giấu điều ấy đi. Thay vào đấy, tôi lại bước xuống cầu thang và nói với ra sau lưng khi đã đến bậc thang cuối, “Chúc ngủ ngon nhé, bồ tèo.”
Tôi nghe tiếng anh cười vang khi tôi bước về phòng ngủ của mình.
Tôi đặt chồng album lên chiếc bàn trang điểm, cạnh cuốn album đầu tiên mà tôi đã mang về từ phòng ngủ bên cạnh và tháo găng tay, áo choàng cùng dép lê rồi bò lên giường, không còn mệt nữa nhưng tôi nghĩ ít ra mình cũng phải cố mà ngủ. Có tiếng bước chân và âm thanh của những chiếc hộp bị kéo lê vào phòng từ căn gác mái - tôi hy vọng đó là nơi đã phát ra những âm thanh này. Buông một tiếng thở dài thườn thượt, tôi xoay người nằm nghiêng và chợt nhìn thấy hình ảnh chồng album hiển hiện trong một vệt sáng nhỏ từ lớp màn cửa sổ đã đóng.
Tôi cứ mở trừng mắt một hồi lâu rồi quyết định ngồi dậy và bật đèn ngủ lên. Hít một hơi thật sâu, tôi bước đến chiếc bàn trang điểm và cầm cuốn album đầu tiên lên mà không nghĩ ngợi gì, cảm giác hứng khởi vì đoán biết được những điều sắp xảy đến cứ xộc lên hai cánh tay khi tôi cầm nó trong tay.
Lần này tôi ngửi được mùi da thuộc bôi dầu thật nồng và mùi khói xe rất đặc trưng. Tôi quẹt lên mặt, những tưởng sẽ lại có được cảm giác của lụa chiffon quấn ngang hai bên má, nhưng lúc này tôi chỉ cảm nhận được làn da của mình. Tôi từ từ thả người ngồi bệt xuống sàn rồi mở album ra. Lúc này lại có mùi của những con ngựa và mùi cỏ khô khiến tôi nhảy mũi.
Cuốn album mở ra một bức ảnh chụp Robert và Louisa đang ngồi trong một chiếc xe hơi cổ Model T. Một chiếc cúp vàng cao được đặt chễm chệ trên ghế xe giữa hai người, và họ đang nhìn nhau, mỉm cười. Louisa che mặt bằng một chiếc khăn choàng bằng lụa the để tránh bụi đường vì xe không có kính chắn gió, và cả hai đều mang kính râm lúc ấy đã được kéo lên đầu. Một nhóm người đang cười giỡn đứng quanh chiếc xe, phía sau họ là một dãy cây sồi dẫn đến mái vòm cao có cột của một lâu đài thuộc phong cách thời Phục hưng Hy Lạp. Magnolia Ridge, tôi tự nhủ và tự dưng biết nó là gì mặc dù tôi chưa bao giờ thấy nó lần nào. Hai con ngựa giống Ả Rập đứng cạnh hàng rào dọc hai bên đường dẫn vào lâu đài đang nhìn vào ống kính máy ảnh. Làm sao mà tôi biết chúng là ngựa giống Ả Rập nhỉ?
Một người đàn ông cô độc đứng tách hẳn với đám đông, chỉ có ánh đèn pha của một chiếc xe hơi khác là được nhìn thấy từ phía sau hông trái ông ta. Người này rất đáng chú ý bởi vì ông ta là người duy nhất trong bức ảnh mà không hề mỉm cười. Và cũng bởi vì ông ta trông giống hệt Marc Longo.
Tôi bắt đầu cảm thấy khó thở, như thể mình đang mặc áo nịt ngực vậy. Một lần nữa, tôi lại có cảm giác như ai đấy vừa đặt cây bút máy vào bàn tay mình khi tôi bắt đầu đọc những dòng chú thích.
Ngày 5 tháng 8 năm 1921.
Với một ý nghĩ bất chợt, anh Robert yêu quý của tôi đánh cá rằng xe của chàng là chiếc xe nhanh nhất ở Charleston này. Tôi nghĩ việc cá cược này thật nhảm nhí bởi vì xe anh ấy được chế tạo ở Detroit bằng những nguyên vật liệu giống hệt như tất cả những chiếc xe khác, nhưng tôi nghĩ mình không thể dùng lý lẽ này để cố thuyết phục một người đàn ông quá ám ảnh với món đồ chơi mới của mình. [Bàn tay đang cầm cây bút bỗng gượng lại khi nó bắt đầu viết dòng kế tiếp.] Joseph Longo là đối thủ duy nhất, và lý do khiến Robert dùng tôi để đặt cược chỉ đơn giản vì ông Longo vốn có câu nói nổi tiếng là ông ta chưa bao giờ thua trong bất cứ vụ gì. Không chịu nổi một kẻ khoe khoang khoác lác hay thậm chí là một kẻ nói láo, Robert sẵn sàng đồng ý cho vụ cá cược. Mặc dù chúng tôi thắng cuộc, tôi vẫn không dứt bỏ được ý nghĩ rằng ông Longo vẫn sẽ không ngừng cố gắng chứng tỏ bản thân mình.
Có cái gì đó rơi xuống sàn ngay cạnh bàn chân, khiến tôi giật mình. Nó không rơi ra từ cuốn album hay từ bất cứ nơi nào khác mà tôi có thể biết được. Rõ ràng vật ấy rơi ra từ ngay giữa không trung. Ðó là một tấm thiếp màu kem hơi to hơn tấm danh thiếp một tí, và tôi thấy có chữ viết ở một mặt khi tôi nhặt nó lên từ tấm thảm.
Ở trên cùng tấm thiếp là những chữ viết tắt tên của Louisa, LCG, vốn là tên thời con gái của bà ấy. Bằng lối chữ thảo thật trang nhã, bà đề ngày 2 tháng 4 năm 1918 và bên dưới là:
Ông Longo thân mến,
Tôi lấy làm tiếc báo cho ông biết rằng tôi và gia đình không thể đến dự buổi tiệc khiêu vũ tưởng niệm sự kiện Pháo đài Sumter vào ngày 12 vì tôi đã có kế hoạch khác.
Trân trọng,
Cô Louisa Gibbes
Tôi nhét tấm thiếp vào cuốn album và đóng nó lại một cách trầm ngâm, hồi tưởng lại những gì Louisa đã viết về Joseph Longo: tôi vẫn không dứt bỏ được ý nghĩ rằng ông Longo vẫn sẽ không ngừng cố gắng chứng tỏ bản thân mình. Vậy thì, liệu đây có phải là bằng chứng, rằng ông ta đã từng theo đuổi bà ấy trước khi bà đi lấy chồng và thậm chí vẫn không từ bỏ việc ấy sau khi bà đã kết hôn cùng Robert? Liệu sự biến mất của họ trong cùng một ngày, cũng là bằng chứng rằng ông ta đã thành công trong việc cuối cùng giành lại được bà ấy?
Tôi đẩy cuốn album ra khỏi đùi và bò lên giường trở lại, kiểm tra bốn góc phòng trước khi tắt đèn ngủ. Tôi nằm thao thức một hồi lâu, lắng nghe tiếng chuông điểm cách mỗi mười lăm phút của chiếc đồng hồ quả lắc dưới nhà, và lại ngửi thấy hương hoa hồng quen thuộc. Và khi chiếc đồng hồ điểm chuông báo hai giờ sáng, thì cuối cùng tôi cũng vỡ lẽ ra rằng tại sao chữ ký bên dưới tờ chứng thư của đồn điền Magnolia Ridge trông quá quen thuộc. Ðó chính là chữ ký của ông Augustus P. Middleton, nhà luật sư, một người dân Charleston, bạn thân nhất của Robert Vanderhorst, và quan trọng nhất, người đó chính là ông nội của tôi.
Tôi xoay người lại và nhắm mắt, tự nhắc nhở mình trong cơn buồn ngủ rằng phải nói điều ấy cho Jack biết vào ngày mai, rồi cuối cùng cũng chìm vào giấc ngủ trước khi chiếc đồng hồ lại điểm chuông.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.