Như thường lệ, ngày đầu tiên các thành viên mới của Sao Thiên Lang tới trình diện tập huấn là thời gian náo nhiệt nhất trong năm của Cha John. Khi Heath dẫn một đám người tới, ba thùng bia Westerfin hảo hạng đã để sẵn trên quầy bar, cha John thì đang rót rượu whisky cho một bàn khách quen ngồi gần cửa.
“Các chàng trai, ngồi xuống đi.” Heath tùy ý phất tay với người phía sau, rồi đi về phía quầy bar.
Dân số ở cảng Faeringehavn không nhiều, trong quán rượu đều là những gương mặt thân quen. Y chào hỏi hai, ba ngư dân rồi gõ vào quầy bar một cách quen thuộc: “Thế nào, cha John, làm ăn được chứ?”
Cha John cười toe toét qua bộ râu trắng rậm: “Vẫn vậy thôi. Ta vừa mua mấy chai vodka thượng hạng và mấy chai Moreau, đều tới cùng máy bay vận tải hôm nay.” Vừa nói, ông vừa rót một ly vodka cho Heath.
Heath huýt sáo: “Cha vẫn khôn khéo như thế.” Nhận lấy ly vodka, y uống một hơi cạn sạch rồi bê tám cốc bia đầy ắp, đi vòng qua mấy bàn đến vị trí tụ tập của các thành viên mới. Y đặt cốc xuống bàn, tự nâng một cốc lên: “Các chàng trai, hoan nghênh tham gia tập huấn mùa hè của ‘Sao Thiên Lang’ năm nay. Dù không biết trong số các cậu có bao nhiêu người có thể kiên trì đến cuối mùa hè, nhưng tôi vẫn hy vọng nơi đây có thể cho các cậu những kỷ niệm đẹp. Tối nay hãy cứ uống thỏa thuê, tôi cam đoan khi tập huấn bắt đầu các cậu sẽ nhớ thương bia ở nơi này.”
Các thành viên mới rì rầm cụng ly, ồn ào nâng cốc. Khi va chạm, bọt bia trắng như tuyết tràn khỏi miệng cốc, bia vàng óng đong đưa bên trong. Trong quán bar, tiếng nhạc blues* từ kèn harmonica và kèn trumpet vang lên trầm thấp như có như không, ánh sáng lờ mờ bập bùng theo ngọn lửa lò sưởi. Cánh cửa gỗ cũ kỹ ngăn cách không khí ấm áp trong phòng và cái giá lạnh bên ngoài, khiến người ta có cảm giác dễ chịu mơ màng.
(*) Nhạc Blues có nguồn gốc từ những điệu hát của miền tây Phi Châu được các nô lệ da đen mang sang Bắc Mỹ, đặc biệt là vùng châu thổ sông Mississippi tại miền nam Hoa Kỳ.
Annie, bồi bàn duy nhất của quán bar bước đến, lấy đi những chiếc cốc không rồi đổ đầy. Cô là con gái duy nhất của cha John, từ nhỏ đã phụ việc trong quán rượu này, một tháng trước thì đính hôn với một ngư dân ở cảng. Heath vẫn nhớ đêm đó cha John đỏ bừng mặt vì vui sướng, ông rót đầy cho mọi vị khách, tiếng cười khàn đặc chất phác vang vọng trong quán rượu cả đêm.
Y tùy ý kéo một chiếc ghế ngồi xuống, ngước lên mới phát hiện bên cạnh là Dan, bia trong cốc của cậu gần như không suy suyển, cố lắm mới thấy thiếu đi một ngụm.
Heath nhíu mày: “Sao vậy, không uống được?”
Dan cười: “Hồi trước tôi cũng uống, sau thì chấp hành nhiệm vụ nên lâu không đụng vào, giờ cai hẳn rồi.”
“Bắc Ireland?” Heath khá hứng thú.
Dan còn chưa trả lời thì cửa quán bar bị đẩy ra, một cơn gió lạnh ập vào… August tới, anh không mặc đồ rằn ri mà đã thay một bộ thường phục có phần trang trọng.
Heath đứng dậy, lớn tiếng chào hỏi, ra hiệu cho anh đi về phía quầy bar.
August bước đến chỗ y rồi ngồi xuống, Annie nhanh chóng mang đến một cốc bia và một ly vodka.
Khi anh đến, bầu không khí sôi động chợt im ắng, nhưng dường như anh hoàn toàn không nhận ra. Khẽ cau mày nhấp một ngụm vodka, sau đó nâng ly lên, nhìn thoáng qua từng thành viên trước mặt, anh nói ngắn gọn: “Hoan nghênh gia nhập ‘Sao Thiên Lang’.” Rồi ngửa đầu uống một hơi cạn sạch chất lỏng trong suốt trong ly.
Không ai lên tiếng, tất cả mọi người cùng nâng cốc trong im lặng.
Heath thầm thở dài rồi đập bàn: “Đây là August, đội trưởng của các cậu trong sáu tháng tới, chiều nay mọi người cũng đã gặp. Tuy tôi không dám chắc sau khi huấn luyện các cậu có chửi thầm chúng tôi trong bụng hay không, nhưng chí ít tôi cam đoan hôm nay các cậu sẽ không làm thế.”
Một, hai thành viên bị y chọc cười, sự im lặng dần bị xua tan. Nhìn những người mới bắt đầu tụ tập chạm cốc tám chuyện, August quay sang nói gì đó bên tai Heath, uống một hơi cạn sạch cốc bia trước mặt, đứng dậy đẩy ghế rời khỏi quán rượu. Heath nhìn theo bóng lưng anh, lắc đầu bĩu môi, khóe mắt bắt gặp ánh mắt hứng thú của Dan.
“Cậu hiếu kỳ à?” Heath nhìn Dan nửa đùa nửa thật.
Cậu trai lắc đầu, ánh đèn như nhảy nhót trong đôi mắt xanh, cậu không nói gì.
Giờ giới nghiêm của căn cứ là 10 giờ tối, Heath trò chuyện lần lượt với từng người, nói về các quy tắc, cảnh cáo nửa nghiêm túc nửa đùa cợt rằng y không muốn ngay ngày đầu tiên đã phải đuổi bớt vài người, sau đó y cũng rời quán rượu từ sớm.
Dan nhìn theo bóng người biến mất ở góc phố, cậu cũng đi ra ngoài.
Tuy tháng Năm cảng Faeringehavn chưa nghênh đón mặt trời lúc nửa đêm*, nhưng ban ngày cũng đã dài hơn.
(*) Ban ngày vùng cực hay mặt trời lúc nửa đêm là một hiện tượng tự nhiên diễn ra tại các địa điểm có vĩ độ nằm ở phía bắc của vòng Bắc Cực cũng như ở các địa điểm có vĩ độ ở phía nam của vòng Nam Cực khi Mặt Trời vẫn còn được nhìn thấy vào thời gian ban đêm tại các địa điểm đó.
Khi Dan đi ra ngoài, bầu trời vẫn chưa tối hẳn, chân trời vẫn xanh, trong gam màu trầm hiện ra sự lạnh lẽo.
Cậu không quay về căn cứ, đồng hồ cho thấy vẫn còn hai giờ hoạt động tự do, cậu rẽ vào góc cuối con phố dài, đi tới bến tàu.
Trên phố lác đác người, cậu đúi tay trong túi, thả bộ thong dong, nếu không phải trên người còn mặc đồ rằn ri thì hoàn toàn không thể nhận ra cậu là một binh sĩ.
Trước mặt có thể nghe thấy vị mặn của gió biển, bên tai là tiếng chim sấm ríu rít, thi thoảng sẽ thấy những bóng đen xẹt qua bầu trời trên đầu, đó là cú tuyết kiếm ăn về đêm.
Dan dừng bước khi cách bến tàu mấy trăm mét, khẽ nhắm mắt lại. Trong không gian tĩnh lặng, năm giác quan như phóng đại vô hạn. Dường như cậu có thể cảm nhận được những dòng khí nhỏ theo đường bay của cú tuyết; tiếng sóng vỗ vào bến tàu cực kỳ rõ ràng. Cậu có thể tưởng tượng từng đợt sóng ập tới tức khắc bị cuốn vào ngọn sóng lớn hơn, chúng hung dữ xô vào cọc bê tông khiến bọt tung trắng xóa. Ở nơi xa hơn, thủy triều dịu dàng liếm bờ cát, phát ra âm thanh “rì rào” có quy luật.
Giữa tiếng sóng hỗn loạn, cậu mơ hồ nghe thấy tiếng đàn dương cầm như có như không. Không ngờ ở nơi cách biệt với thế gian mà cậu có thể nghe thấy âm thanh này. Cậu mở mắt, có phần kinh ngạc đi tìm nơi phát ra tiếng đàn.
Có một con hẻm khuất ở góc phải con đường chính dẫn vào cảng. Đi dọc theo con hẻm, tiếng đàn ngày càng rõ. Hợp âm rải liên tục như những gợn sóng lăn tăn dẫn tới đoạn chủ đề quen thuộc. Cậu gần như có thể tưởng tượng sự luân phiên giữa hai bàn tay trái phải trên những phím đàn đen trắng, dịu dàng như gió nhẹ lướt qua mặt biển lấp loáng.
<Một tiếng thở dài>. Étude Concert Số 3. Liszt.
(*) Etude là một đoạn khí nhạc ngắn, thường là viết cho piano, có độ khó nhất định. Người ta sáng tác etude với mục đích hoàn thiện một mặt nào đó trong kỹ thuật biểu diễn của nghệ sĩ nhưng cùng lúc vẫn khơi gợi hứng thú âm nhạc. Suốt một thời gian dài etude được coi là các bài tập kỹ thuật. Về mặt cấu trúc, etude không phức tạp: hầu hết đều ở dạng ba đoạn ngắn. Đọc thêm tại đây.
Franz Liszt là một nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Hungary. Đọc thêm tại đây.
Three Concert Études, S.144, là một bộ ba études piano của Franz Liszt, được sáng tác từ năm 1845 – 1849, bao gồm: Il lamento (Lời than khóc), La leggierezza (Sự nhẹ nhàng), Un sospiro (Một tiếng thở dài). Đọc thêm tại đây. Nghe tại đây.
Cuối cùng Dan dừng lại trước hàng rào cuối hẻm, nơi có một cây bạch dương nhỏ chỉ cao tới nửa người. Từ góc nhìn của cậu, có thể thấy một khoảng sân nhỏ, cửa sổ sát đất của phòng khách tỏa ánh đèn vàng ấm áp, tấm rèm chỉ kéo một nửa khiến cậu nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng bên trong: Một bà lão tóc hoa râm ngồi trên ghế bành bên lò sưởi, ánh mắt chăm chú nhìn ngọn lửa bập bùng. Bên phải bà là một cây dương cầm màu nâu, trông nó cũ kỹ dưới ánh đèn. Một bóng người quen thuộc đang ngồi trên ghế piano, mười ngón tay mảnh khảnh lướt trên những phím đàn đen trắng.
Hiển nhiên, giai điệu mà cậu nghe thấy là từ nơi đây, chảy dưới bàn tay người này.
Dan nhướng mày kinh ngạc, cậu không ngờ người đàn ông nghiêm túc trong quán rượu nửa giờ trước lại có thể đàn giai điệu lãng mạn như vậy.
Khi khúc nhạc kết thúc, trong khoảng lặng ngắn ngủi, những con chim không biết tên trên bụi cây trong sân cất tiếng hót véo von, như thể bắt chước bản nhạc vừa nghe.
Dan thấy August đứng dậy từ ghế piano, trịnh trọng đóng nắp đàn, vuốt phẳng những nếp nhăn trên áo khoác thường phục, hơi cúi người nói gì đó bên tai bà lão. Từ góc nhìn của mình, Dan không nhìn thấy vẻ mặt bà, nhưng ngay sau đó, bà đưa tay nắm lấy tay phải August. Trên mặt người đàn ông không còn sự lạnh lùng như trước, vẻ mặt gần như dịu dàng đưa tay trái lên, khẽ lau khóe mắt bà, chạm môi lên trán bà, sau đó anh đứng dậy, đi về phía cửa.
Theo bản năng, Dan lùi lại hai bước vào trong bóng cây, cậu cố ý thở chậm lại, giấu mình trong bóng tối.
August đẩy hàng rào ra, dáng người vẫn thẳng tắp, anh khẽ cau mày. Không phát hiện xung quanh có gì khác thường, anh đi thẳng tới lối ra của con hẻm.
Mãi tới khi bóng dáng anh khuất sau con hẻm, Dan mới rời khỏi chỗ nấp. Cậu quay đầu nhìn khoảng sân nhỏ, lúc này rèm cửa đã kéo kín, ánh đèn tối hơn trước, có lẽ bà lão chuẩn bị đi nghỉ.
Cậu nhìn thoáng qua, trong mắt như có điều suy tư.