Trong khoảnh khắc đó, Lỗ Thiên Liễu đã muốn buông xuôi, đã nghĩ đến cái chết. Cô chưa bao giờ cảm thấy bất lực như lúc này, vì vậy, cũng chưa bao giờ cảm thấy nhớ người thân đến thế. Cô nhớ đến cha, nhớ tới Ngũ Lang, nhớ tới những bậc tiền bối, anh em đã cùng mình xông pha nguy hiểm. Trên đường vượt khảm, trong số họ đã người chết, kẻ bị thương, sau khi rơi vào trận Trăm đốt đan xen, càng không biết sống chết ra sao. Lại nhìn tình cảnh trước mắt, e rằng chỉ còn nước xuống suối vàng mới có cơ may gặp lại.
Nghĩ đến đây, nước mắt Lỗ Thiên Liễu bỗng ứa ra, những giọt nước mắt trong veo trào xuống bờ mi giàn giụa. Đúng lúc đó, bỗng dưng Lỗ Thiên Liễn phát hiện ra, đôi mắt cô đã lại mở được.
Sau khi mở mắt, cảnh tượng xung quanh đã khôi phục lại trạng thái ban đầu. Đầu óc không con quay cuồng, cơ thể cũng không chao đảo nữa, áp lực vô hình trong cảm giác cũng tan biến sạch không. Lỗ Thiên Liễu bèn hít vào thật sâu một luồng hơi ẩm ướt. Khi luồng hơi được thở ra, lồng ngực đang ngột ngạt xáo trộn bỗng như được gột rửa một lượt.
Cổ đẩy mạnh hai tay xuống đất, nâng người đứng dậy, đôi mắt vẫn ướt đẫm, ánh lệ long lanh.
Là loại màn che mắt “Rèm chảy”, kết hợp với bùa chú “ý không dời”, lợi dụng sự phản xạ ánh sáng liên tục của dòng nước chảy để kích thích thần kinh thị giác, từ đó gây rối loạn toàn bộ hệ thần kinh não bộ. Dưới tác dụng của bùa chú “ý không dời”, chỉ cần hình ảnh truyền vào mắt, lực tác dụng sẽ rất khó rũ bỏ. Cho dù anh hùng hảo hán cỡ nào, vẫn bị giày vò đến nguyên thần suy kiệt, ngã gục trên đất không thể gượng dậy. Nếu trên mặt đất lại bố trí thêm nút lẫy liên hoàn, thì chuyện sống chết sẽ hoàn toàn do đối phương định đoạt.
May mà Lỗ Thiên Liễu chẳng phải anh hùng hảo hán, vì anh hùng hảo hán thà đổ máu chứ không đổ lệ. Cô chỉ là một cô gái yếu đuối, một cô con gái quen nghề quét tước dọn dẹp trong nhà thợ mộc. Cũng giống như những người con gái khác, trong những thời khắc đau đớn khổ sở nhất, đều trở nên yếu đuổi mà rơi lệ.
Dòng nước mắt đã hoá giải được bùa chú “ý không dời”, ánh lệ long lanh đã hoà tan bức màn che mắt Rèm chảy. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễu mới có thể tiếp tục đứng lên, nhân lúc hai mắt vẫn vương đầy nước mắt, ánh nước chưa tan, mà nhanh chóng rời khỏi nơi này.
Lỗ Thiên Liễu tiếp tục chệnh choạng tiến lên phía trước chừng hơn hai chục bước chân, sau khi vòng qua một khúc ngoặt lớn, cô lại đột nhiên dừng bước. Vì thính giác và xúc giác rất mực nhạy bén đã phát hiện ra, bàn chân cô vừa giẫm lên một thứ rất không nên giẫm. Một tiếng “cạch” hết sức mơ hồ vang lên, đó là một âm thanh quá đỗi quen thuộc với giới khảm tử: tiếng bật lẫy. Và cô cũng dễ dàng nhận ra được cảm giác dưới bàn chân: cô vừa giẫm phải chốt lẫy kiểm giẫm.
Ánh lệ trong đôi mắt Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa khô, song mồ hôi lạnh đã bắt đầu chảy xuống. Cô biết mình đã mắc phải một sai lầm nghiêm trọng. Vì muốn nhanh chóng thoát khỏi khảm diện khi nãy, không những đã sơ suất trong cách bước đi, thậm chí ngay cả sự thận trọng trong kiểm tra rìa khảm, cô cũng quên bẵng mất.
Đây chính là thứ mà giới khảm tử gọi là khảm chồng khảm, khảm đè khảm. Chút sức lực còn lại sau khi thoát khỏi khảm phía trước, sẽ nhanh chóng đẩy đối phương rơi vào khảm diện tiếp theo.
Xung quanh vô cùng tĩnh lặng, ngoài tiếng tí tách của những dòng nước giọt gianh ở phía sau lưng, dường như không còn một âm thanh nào khác.
Lẽ nào khảm diện lại không hoạt động?
Lỗ Thiên Liễu biết mình sẽ không may mắn như vậy, trong giới khảm tử không có chỗ cho hai chữ “may mắn”. Cô đứng bất động tại chỗ, không dám nhúc nhích, chỉ chậm rãi hít thở một hơi, và dùng một hơi thở đó để ngưng tụ não thần. Ba giác trong sáng của cô chốc lát đã trở nên mẫn tiệp gấp bội, cô có thể nghe thấy nhiều hơn, ngửi thấy nhiều hơn, cảm nhận được nhiều hơn nữa.
Âm thanh của màn nước giọt gianh đã thay đổi, đã chậm lại, khoảng cách giữa các giọt nước đã giãn rộng dần. Điều này có nghĩa là lượng nước chảy theo các rãnh ngói đang giảm dần, không biết chúng đã chảy về đâu?
Mặt đường dưới chân cô đang nhúc nhích, rất nhẹ, có lẽ là nút lẫy, chốt trục đã vào đúng vị trí. Cùng lúc đó, cô cảm thấy chỗ mình đang đứng hơi lún xuống một chút.
“Việc cần làm nhất lúc này là nhảy bật lên và lao ra ngoài thị trấn!” - Lỗ Thiên Liễu nhẩm đếm số bước chân mà mình đã tiến vào, tổng cộng chỉ có vài chục bước. Dựa vào công phu khinh công và tốc độ của cô, vẫn có khả năng thoát được ra ngoài trước khi nút lẫy bung ra hoàn toàn.
Mặc dầu nghĩ như vậy, nhưng cơ thể cô vẫn bất động. Vì cô đột nhiên phát hiện ra rằng, so với đoạn đường phía trước, đoạn đường mà cô vừa đi qua là nhỏ hẹp nhất, nhà cửa ai bên không có hiên trước, cửa ra vào có vẻ giống như cửa giả, thoạt nhìn ngỡ là cửa, nhưng thực chất phía sau lại là bức tường kín mít. Nói cách khác, đoạn đường phố và nhà cửa ở đây được dùng để thiết kế khảm nút. Lúc cô bước vào chúng không có bất kỳ động tĩnh nào, như vậy, chắc chắn chúng được dùng để chặn giết những kẻ muốn thoát ra. Đương nhiên, cũng không thể phi thân chạy qua mái nhà. Trong khảm diện, nơi không có đường chính là đường chết, nhảy lên mái nhà chắc chắn sẽ có nút tất chết tấn công, đến lúc đó có muốn rút lui cũng không còn cơ hội.
Đã không thể quay lại, chỉ còn nước tiến lên phía trước hoặc đứng yên tại chỗ.
Đoạn đường với trung tâm là vị trí cô đang đứng bỗng nhiên hơi lún xuống một chút nhằm mục đích gì? Thực ra trên một con đường dài, đặc biệt là những chỗ lượn vòng, khi mặt đường hơi nghiêng dốc về một hướng nào đó, người bình thường rất khó phát hiện ra. Nhưng người đang đứng trên đoạn đường này lại là Lỗ Thiên Liễu, cô không giống với người thường.
Những dòng nước giọt gianh đã từ từ biến mất, chỉ thi thoảng mới có một giọt nhỏ xuống. Lác đác những tiếng “tí tách” trong vang khiến không gian càng trở nên tĩnh mịch. Yên lặng, có nghĩa là nút lẫy của khảm diện đã hoàn toàn khớp vào vị trí, sẽ lập tức phản ứng, hoặc là nút lẫy đã bị kẹt, khảm diện bất động.
Lại một lúc lâu sau, Lỗ Thiên Liễu không thể tiếp tục chịu đựng sự im lặng đáng sợ kia nữa, cô muốn hành động. Nhưng khi bàn chân đang giẫm trên chốt lẫy mới chỉ hơi nhấc lên một chút, lập tức dội lại hai tiếng “uỳnh, uỳnh” từ hai nơi vọng lại. Một nơi là lối vào thị trấn, một nơi là lối rẽ trước mặt cách chỗ Lỗ Thiên Liễu đang đứng không xa. Sau đó, tiếp tục vọng lên hàng tràng những tiếng huỳnh huỵch liên tiếp, từ chậm đến gấp, toàn bộ mặt đường rung chuyển dữ dội. Khi hai chiếc cối đá khổng lồ thình lình lao đến từ phía trước và sau lưng Lỗ Thiên Liễu với tốc độ cực nhanh, cô chỉ kịp rú lên một tiếng kinh hoàng.
Đã không còn lối nào để thoát thân, Lỗ Thiên Liễu đứng yên bất động, mắt mở trừng trừng nhìn hai chiếc cối xay khổng lồ đang lao vụt lại.
Khảm diện này có tên là “Rãnh cối lăn”, ban đầu là do nhà họ Lỗ thiết kế ra, nhưng không phải khảm diện sát nhân, mà chỉ dùng để xua đuổi. Vốn dĩ cối đá chỉ có một chiếc, tốc độ lăn khá chậm, khiến cho người tiến vào đường rãnh lăn không còn nơi lẩn trốn, chỉ có thể thoát lui trở ra. Loại “Trục lăn lửa”[33] trước đây thường được sử dụng để giữ thành hoặc giao chiến trong ngõ hẹp cũng là vận dụng phương pháp này, chỉ có điều đã thay cối đá bằng con lăn gỗ, tẩm qua dầu rồi châm lửa đốt lên, sau đó lăn về phía trước để ép quân địch phải rút lui.
Nhưng lúc này, Lỗ Thiên Liễu đang sa vào khảm diện Rãnh cối kép, chính là sát khảm. Nó đã biến một đoạn đường hẹp kết hợp với hai dãy nhà san sát hai bên làm rãnh lăn. Sau khi người sa vào khảm giẫm phải chốt lẫy, sẽ lợi dụng hệ thống thuỷ lực và đòn bẩy để đưa hai khối cối đá có chiều dài đúng bằng đường rãnh vào hai đầu rãnh, đẩy chúng lăn đi để đồng thời tấn công từ hai hướng, nghiền nát nhừ người bị kẹt trong khảm.
Một tiếng va đập chát chúa vang lên, khiến hai lỗ tai Lỗ Thiên Liễu như ù đặc, mạt đá bay tứ tán cùng những tia nước phụt ra tung toé khiến toàn bộ những phần da thịt lộ ra ngoài của Lỗ Thiên Liễu đau rát như phải bỏng. Lỗ Thiên Liễu vẫn còn sống!
Khi cối đá khổng lồ vừa xuất hiện, Lỗ Thiên Liễu đã kịp phát hiện ra chỗ khuyết của khảm diện, vì vậy cô mới đứng yên bất động. Vị trí của cô đang đứng chính là điểm trung tâm của khảm diện này, cũng là điểm gặp nhau của hai cối đá. Khi hai khối cối đá hình trụ khổng lồ va đập vào nhau, chỉ có bộ phận phía trước của mặt trụ tròn tiếp xúc, còn phía dưới của hai khúc cối đá vẫn còn một khoảng trống được tạo thành bởi hai mặt trụ tròn. Bởi vậy, khi hai khúc cối đá đập thẳng vào nhau, Lỗ Thiên Liễu đang nằm ngang giữa mặt đường, cơ thể mảnh mai của cô vừa vặn lọt vào khoảng không bên dưới. Vì vậy cối đá đã không thể nghiền nát được cô.
Tiếng va đập vang động rồi cũng tiêu tan, những vụn đá tứ tung đều đã rào rào rơi xuống. Mặt đường lại bằng phẳng như cũ, hai khúc cối đá khổng lồ cũng lừ lừ lui lại. Nhưng lúc này không thấy Lỗ Thiên Liễu đâu nữa, trên mặt đường chỉ còn lại hai cánh hoa nhỏ bé trắng muốt hơi phơn phớt sắc xanh.
Lỗ Thiên Liễu đã đi rồi. Đúng vào khoảnh khắc hai khúc cối đá đập thẳng cánh vào nhau, trên bức tường ở một bên đường đã hé ra một lỗ hổng hình tròn không lớn, lỗ hổng vừa vặn đối diện với khoảng trống mà Lỗ Thiên Liễu đang nằm.
Lỗ hổng rất nhỏ, chỉ có những người thân hình nhỏ nhắn hoặc luyện được thuật rút xương mới có thể chui lọt. Hình dạng lỗ hổng cũng không bình thường, chắc hẳn không phải là kiểu “mời ông vào vò” dẫn đến một khảm vây khốn tiếp theo.
Trong công phu Tịch trần mà Lỗ Thiên Liễu đã học có một thuật tên là “Xuyên khung”, khá tương tự với công phu rút xương của người học võ. Đó là lợi dụng sự biến dạng của cơ thể trong khoảng một lần hít thở và sau khi xương cốt cơ bắp vận động, tìm ra một trạng thái cơ thể thích hợp để chui qua một khoảng trống nhỏ hẹp. Thuật này chủ yếu được sử dụng khi tìm kiếm chỗ ám phá và rác rưởi nguy hiểm ẩn trong những khoảng không nhỏ hẹp như xà nhà, sống nóc...
Lỗ Thiên Liễu vốn là một cao thủ Tịch trần, hơn nữa lại có thân hình mảnh mai thanh thoát, bởi vậy, chỉ cần nhẹ nhàng lắc người mấy cái, cơ thể mềm mại của cô đã chui tọt qua lỗ hổng.
Đó là một căn phòng sặc mùi máu tanh, hôi thối nồng nặc, nhưng dù sao cũng chứng minh được rằng phòng ốc hai bên đường không hoàn toàn là nhà giả. Căn phòng không có cửa nẻo, ngoài lỗ hổng mà cô vừa chui qua, không có thêm một tia sáng nào khác lọt vào, nói chính xác hơn, đây chính là một gian mật thất đúng nghĩa.
Lỗ Thiên Liễu đang định thắp đèn để quan sát tình hình xung quanh. Đột nhiên một luồng âm thanh quái dị dội lên từ dưới bàn chân, khiến cô kinh hãi tung người nhảy vọt đi, nép vào góc tường, cơ thể dán chặt vào vách.
Tiếng động vang lên vì bên ngoài đang có thứ gì đó đang di chuyển, hơn nữa, đang tiến thẳng đến lỗ hổng mà cô vừa chui vào. Lỗ Thiên Liễu nhẹ nhàng nâng cánh tay lên, cặp Phi nhứ bạc đã sẵn sàng vụt khỏi tay áo.
Không có thứ gì chui vào lỗ hổng, song lỗ hổng đã nhanh chóng bị bịt kín, kín đến nỗi một tia sáng cũng không thể lọt qua. Căn phòng chớp mắt đã tối như bưng, đến ánh sáng trời buổi hoàng hôn cũng không soi đến được.
Bóng tối ập xuống, trái tim Lỗ Thiên Liễu cũng nghẹt cứng lại theo. Cô không kịp suy nghĩ gì thêm, lập tức phóng vụt Phi nhứ bạc đi. Phản ứng rất chính xác, cách tốt nhất để né tránh những cú đột kích trong bóng tối chính là treo cơ thể lơ lửng trên không, trên không chạm nóc, dưới không bén đất.
Lỗ Thiên Liễu thu độ dài của Phi nhứ bạc còn một nửa, vì căn phòng không cao. Thế nhưng kết quả vẫn nằm ngoài dự liệu của cô, quả cầu sắt giấu bên trong tấm khăn nhung mới phóng đến một độ cao thấp hơn dự tính rất nhiều đã va phải vật gì mà bật ngược trở lại.
Chẳng lẽ đã chạm nóc rồi sao? Tại sao lại thấp đến vậy? Âm thanh từ cú va chạm cho thấy quả cầu thép đã đập phải vật gì rất cứng.
Lỗ Thiên Liễu không dám phóng Phi nhứ bạc thêm một lần nữa, sự việc mà bản thân mình còn chưa rõ, tuyệt đối không được khinh suất thử lại. Thế là cô quyết định sử dụng phương pháp treo người khác. Lúc nãy, khi bờ vai mỏng manh của cô vừa tựa vào góc tường, đã cảm giác được rằng bức tường được xây từ đá. Bề mặt đá rất thô, có rất nhiều góc nhọn gồ ghề chưa được mài đẽo. Với một mặt tường thế này, có thể dễ dàng sử dụng chiêu “Bám góc” trong công phu Tịch trần, dùng tay không để bám tường leo lên. Chỉ cần đưa tay bám chặt vào những góc cạnh nhô ra trên góc tường, sau đó hai chân đạp mạnh vào vách đá hai bên, tay chân vận lực giao nhau, có thể men theo góc tường mà trèo lên mái nhà.
Lỗ Thiên Liễu mới kéo thân người lên trên được hai lần, đã phát hiện ra trên đỉnh đầu có thứ gì đó. Cô lập tức dừng ngay động tác, nhẹ nhàng đưa đầu lên phía trên. Xúc giác siêu phàm đã giúp cô khống chế được lực đạo va chạm, cô có thể đảm bảo rằng cú chạm rất khẽ khàng này sẽ không làm khởi động bất kỳ chốt lẫy nào, đồng thời vẫn đủ để giúp cô nhận biết được phía trên là thứ gì.
Cảm giác sau cú chạm rất đơn thuần, cô có thể đưa ra một phán đoán chính xác: bên trên là đá. Cô lại tiếp tục đẩy cơ thể lên trên một chút, mở rộng phạm vi tiếp xúc của phần đầu. Toàn bộ đều là đá, dường như phía trên là một phiến đá nguyên khối, chứ không phải xà nhà bằng đá.
Lỗ Thiên Liễu vô cùng thận trọng, cô lại thu cơ thể nép sát vào góc tường, tứ chi vận lực áp sát vách đá, tư thế này trong giang hồ gọi là “chuột nép tường”. Sau khi đã cố định được tư thế, Lỗ Thiên Liễu tiếp tục sử dụng ba giác đặc biệt mẫn cảm để rà soát kỹ càng trong căn phòng tối mịt. Sau khi đã xác nhận được rằng xung quanh không có gì nguy hiểm, cô mới nhẹ nhàng trượt xuống mặt đất không một tiếng động, sau đó móc từ trong túi bên hông ra một quả cầu sáng xanh. Quả cầu rất sáng, vừa mới lộ ra, một quầng ánh sáng xanh lục đã chiếu sáng bừng cả căn phòng u tối.
Quả cầu không phải là dạ minh châu, cũng chẳng phải đá huỳnh quang, trên mặt có đường vân hình mắt rất rõ nét, trông rất giống mắt mèo. Kỳ thực đây chính là một con mắt rắn, trước kia cô và Ngũ Lang đã lấy được sau khi giết chết con bạch xà mang vảy dưới giếng đá Tử Kim. Con mắt của bạch xà không những có thể phát sáng, mà khi mang theo người, sẽ không có giống rắn rết, bọ cạp, trùng độc nào dám tấn công. Lúc đó Lỗ Thiên Liễu chỉ kịp móc được một con mắt, con mắt còn lại đã cùng với xác rắn tan thành một vũng nước vàng.
Có con mắt rắn soi sáng, Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng nắm bắt được tình hình. Thì ra gian mật thất này là một tảng đá lớn nguyên khối khoét rỗng ruột mà thành, đám tường trắng ngói đen bên ngoài chỉ là lớp vỏ nguỵ trang. Còn tiếng động dội lên từ dưới chân lúc nãy cũng không phải có vật gì lao vào lỗ hổng, mà là sau khi khảm diện vận hành xong, lỗ hổng sẽ tiếp tục bị bịt kín như cũ.
Mùi máu tanh tưởi và mùi thối rữa nồng nặc ngập ngụa trong gian phòng đá, song cô không hề tìm thấy một vật ô uế hay phân huỷ. Gian phòng đá rất nhỏ, ngoài lỗ thủng lúc nãy, không còn bất cứ lối ra vào nào khác. Lỗ Thiên Liễu có chút băn khoăn: “Lẽ nào đây chính là một nút lẫy kín tiếp sau Rãnh cối kép? Nếu như vậy, chỉ có thể tìm cách thoát ra qua lỗ hổng vừa rồi.”
Song lỗ hổng đó chắc chắn không thể mở ra được nữa. Nhìn vào phương thức mở và đóng của lỗ hổng ban nãy, khi mở ra không hề xuất hiện nắp chặn[34], khi đóng lại, nắp chặn sẽ di chuyển từ ngoài vào trong, đây chính là kiểu chốt lẫy xoay chuyển tuần hoàn một chiều tiêu chuẩn, không có cách nào mở được từ bên trong.
Lỗ Thiên Liễu vẫn không tuyệt vọng. Cô quỳ xuống bên lỗ hổng, quan sát thật tỉ mỉ, và phát hiện ra rằng nắp chặn và lỗ hổng là kiểu nút đảo ngược[35], khớp vào khe ở sáu cạnh. Đây là một kỹ thuật cổ xưa của nhà họ Lỗ.
Kết quả này khiến Lỗ Thiên Liễu càng khẳng định chắc chắn hơn rằng lỗ hổng này hoàn toàn không thể mở được từ bên trong, cho dù vị tổ tiên chế tạo ra khảm diện này năm xưa có xuất hiện, cũng đành bó tay hết cách. Nhưng tổ tiên của Lỗ gia đều là những người nhân hậu, chắc chắn sẽ không thiết kế ra kiểu khảm tuyệt đoạn, hẳn sẽ lưu lại một con đường sống ở nơi nào khác.
Thế nhưng khảm diện Rãnh cối kép phía ngoài đã đi ngược lại quy tắc của nhà họ Lỗ. Lại còn dãy phòng ốc tường trắng ngói đen giả mạo chứa đựng khối đá rỗng bên trong, nhìn vào mức độ cũ kỹ của gỗ đá, tuổi thọ của nó hẳn chỉ ba trăm năm đổ lại. Điều này có nghĩa khảm diện đã bị thay đổi từ lâu!
Kẻ nào muốn làm như vậy? Có hai khả năng, thứ nhất là hậu duệ của nhà họ Lỗ lưu lại nơi đây để bảo vệ báu vật, thứ hai là đối phương đã phá giải được khảm diện bảo vệ bảo cấu của tổ tiên. Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu không khỏi hoang mang. Dây tơ hồng, vách Bách anh, trùng bám xương, hồn phách tụ chướng... tất cả đều là thủ đoạn dùng trùng độc mà đối phương thường xuyên sử dụng. Những giống vật quái đản dị hợm mà cô đã từng nhìn thấy hoặc nghe thấy, chớp mắt đã kéo nhau hiện về trong trí não.
Chưa đợi Lỗ Thiên Liễu kịp trấn tĩnh trở lại, một tràng âm thanh quái dị lại vọng đến. Cô vội vã cất con mắt rắn vào trong túi, gian phòng đá lại tối đen như mực. Cô đứng yên tại chỗ, vận dụng ba giác mẫn tiệp để biện nhận thứ âm thanh quái đản kia. Giống tiếng nước chảy, vọng đến từ khắp bốn phương tám hướng, Lỗ Thiên Liễu đột nhiên nhớ tới âm thanh xác chết trẻ nhỏ trèo tường trong khảm diện vách Bách anh dưới nước mà cha từng kể lại...
Tiếng nước chảy ma quái vẫn không hề tiêu biến. Một giọt nước lạnh buốt bỗng nhỏ xuống má Lỗ Thiên Liễu. Không phải là nước mắt, cũng không phải là mồ hôi, mà là một giọt nước thực sự.
Lỗ Thiên Liễu đưa đầu ngón tay nhẹ nhàng gảy giọt nước bay đi, tựa như vừa đưa một ngôi sao quay trở về với bầu trời đêm tối thẳm.
Giọt nước còn chưa kịp chạm đất, một luồng nước cực mạnh thình lình phun thẳng đến, không biết xuất phát từ nơi nào, không hề có một dấu hiện báo trước. Luồng nước to bằng miệng thùng đã đẩy Lỗ Thiên Liễu đang trong tình thế không chút đề phòng bắn ngược lại năm sáu bước, đến khi va phải vách tường mới dừng lại được.
Cơ thể vừa dừng lại, Lỗ Thiên Liễu lập tức xoay người lao vụt về hướng luồng nước đang phun đến. Có luồng nước lớn bằng miệng thùng phun vào, chắc chắn sẽ có một lỗ hổng tương tự. Lao theo luồng nước tìm ra lỗ hổng không khó, khó là ở chỗ làm sao có thể thoát ra qua lỗ hổng đang phun nước xối xả với áp lực nước cực mạnh. Mới chỉ đặt một ngón tay vào luồng nước đang phun vùn vụt, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra hy vọng thoát thân là hoàn toàn không thể.
Sau khi gắng đưa cơ thể thoát ra khỏi luồng nước, Lỗ Thiên Liễu đã gần như sức cùng lực kiệt, thậm chí không còn đủ sức để đứng vững. Cô đành buông lỏng cơ thể, mặc cho dòng nước từ từ nâng mình lên cao.
Mực nước dâng lên rất nhanh, chốc lát đã nhấn chìm lỗ thủng đang phun nước vào phòng. Lỗ Thiên Liễu nổi bồng bềnh trên mặt nước, chỉ cần duỗi tay đã sờ được đến nóc phòng.
Điều chỉnh hơi thở, tập trung sức mạnh, dùng thính giác siêu phàm để phân tích tiếng nước chảy, dùng xúc giác mẫn tiệp để cảm nhận sức mạnh của dòng nước. Lỗ Thiên Liễu nhận thức rõ, đây chính là cơ hội cuối cùng của cô. Khi mực nước trong căn phòng đá dâng lên cao, áp lực của luồng nước nơi lỗ hổng cũng dần dần được cân bằng. Mặc dù không biết tình hình phía sau lỗ hổng ra sao, có đường sống hay không, thế nhưng với một người khao khát sinh tồn, chắc chắn sẽ không chịu bỏ qua một cơ hội nào dù là mong manh nhất.
Ba giác nhạy bén đã cho cô biết, luồng nước phun qua lỗ hổng đang chậm dần, lực phun cũng đã yếu đi, song lúc này, mực nước cũng sắp chạm đỉnh. Lỗ Thiên Liễu mau chóng xác định vị trí chính xác, hít vào một hơi thật sâu rồi lặn xuống.
Sau một hồi giằng co giãy giụa, Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến bên lỗ hổng. Song đúng lúc đấy, cô bỗng cảm giác sau lưng xuất hiện một tia sáng, và hơn nữa, tia sáng đang mở rộng dần. Cùng lúc đó, áp lực phun tại lỗ thủng trước mặt đột nhiên tăng lên gấp bội, đồng thời phía sau lưng lại xuất hiện thêm một lực hút rất mạnh kéo ngược cô trở lại. Cô chỉ biết cố sống cố chết bấu chặt lấy mép lỗ hổng theo phản xạ, không để dòng nước cuốn đi.
Song chỉ một lát sau, Lỗ Thiên Liễu đã không thể gắng gượng thêm được nữa, và bị dòng nước giật phăng đi, cơ thể lộn nhào xoay như chong chóng. Một cú va đập rất mạnh, cô ngất đi không còn biết gì nữa.
Lỗ Thiên Liễu bừng tỉnh. Ánh sáng buổi chiều tà rọi thẳng vào mắt khiến cô có phần xây xẩm. Mặt đường phía dưới trơn nhẫy và dính nhép, dường như bị phủ lên một lớp gì đó dày và mềm nhũn, lại thêm dòng nước chảy qua, nên trơn trượt chẳng khác gì mặt băng. Cô quyết định phải đứng lên, bèn cố gắng thả lỏng cơ thể, nhấc chân trên dậy, cột sống và hai hông kéo căng thành hình tam giác, từ cẳng chân trở xuống vận lực song không cứng nhắc, hai bàn chân điều chỉnh theo thế, chớp mắt đã đứng vững vàng trên mặt đường trơn tuột.
Sau khi đứng dậy, Lỗ Thiên Liễu không di chuyển ngay, mà vẫn đứng yên để định thần trở lại. Mặc dù cảm thấy sau gáy âm ỉ đau và hơi váng vất, nhưng với khả năng kiểm soát cơ thể và công phu khinh công tuyệt hảo, mặt đường trơn nhẫy và dính nhem nhép trước mặt hoàn toàn không thể gây trở ngại cho cô. Sở dĩ cô không lập tức hành động, là vì cô muốn biết rõ bản thân đang ở chốn nào.
Đây là một con ngõ nhỏ, một con ngõ rất ngắn. Từ chỗ cô đứng, có thể nhìn thấy con đường lớn bên ngoài đầu ngõ. Đây còn là một ngõ cụt, không xa sau lưng cô là nguyên một khối đá núi chặn kín. Lỗ Thiên Liễu thần trí mơ hồ, cảm giác như mình vừa thoát ra từ cuối ngõ, cơ thể cô vừa đi xuyên qua cả khối đá dày.
Đích xác là cô vừa lao ra qua tảng đá. Tảng đá lớn chính là một khảm diện tượng tự như “Đổ đấu”, sau khi mực nước bên trong đạt tới độ cao nhất định, áp suất của nước sẽ khiến nút lẫy khởi động, đẩy bật bức tường đá ra. Thế nhưng thiết kế “Đổ đấu” ở đây có ý nghĩa gì? Chẳng nhẽ chỉ để ngâm người ta trong nước một lúc thôi ư?
Lớp nhầy nhẫy như bùn màu trắng pha vàng lại xen lẫn vài tia đỏ máu trên mặt đường là thứ quái quỷ gì? Nó dấp dính và trơn tuồn tuột, không đến nỗi quá cứng, hơi trong suốt, lại phả ra một thứ mùi rất quen. Bị thôi thúc bởi lòng hiếu kỳ, Lỗ Thiên Liễu cố gắng giữ vững thân người, từ từ ngồi xuống. Cô đưa ngón tay quệt vào thứ chất nhầy quái lạ đó, rồi đưa lên mũi ngửi, khứu giác nhạy bén nhanh chóng lục soát trong ký ức xem có mùi vị nào tương tự hay không.
Là mùi người! Thứ mùi tanh của cơ thể con người, trong đó có pha lẫn chút tanh tưởi của máu và mùi hôi thối của phân.
Đột nhiên, Lỗ Thiên Liễu vụt nhớ đến một thứ, một thứ khiến cô suýt chút nữa ngã gục trở xuống. Đứng trên thứ này sẽ bị nỗi kinh tởm và cảm giác nhơ nhuốc hôi hám bủa vây tầng tầng lớp lớp, khiến người ta chỉ muốn lập tức bỏ chạy thục mạng.
Chính là mỡ người!
Chú thích
[33] Một loại vũ khí giữ thành. Loại sử dụng trên thành được bện từ các thanh gỗ, thanh tre, trọng lượng khá nhẹ, bên ngoài được bọc một lớp vải, tẩm dầu, châm lửa đốt rồi cho lăn từ trên thành xuống. Loại sử dụng trên mặt đất dùng một súc gỗ tròn lớn, tẩm dầu rồi đốt, hai đầu súc gỗ có hai thanh sắt thò ra, dùng một que sắt có phần đầu uốn tròn lồng vào để đẩy súc gỗ lăn lên phía trước, nhằm đẩy lùi kẻ địch đang xông đến, hoặc trực tiếp tấn công thẳng vào trận địa đối phương.
[34] Tức là cửa chặn dùng để đóng mở trong khảm kín, khảm giam và một bộ phận khảm vây.
[35] Phần nút hoặc nắp chắn được điều khiển bởi một loại chốt tự động vận hành tuần hoàn, loại chốt tự động này chỉ chuyển động theo một hướng cố định. Sau khi phần nút hoặc nắp chắn đã vào đúng vị trí, không thể đẩy ngược lại để mở ra, mà chỉ có thể tiếp tục bị đẩy vào trong. Phải đợi đến khi vòng tuần hoàn xoay qua chỗ chuyển ngoặt, mới có thể mở ra.