Trong khi A Nhất đang đấu tranh với tử khí ở địa ngục, thì Mạc Nguyệt đã thành công thông qua Cổ giới, phá toái đến địa phận của Cổ tộc trên Tu Di sơn, thuộc hạ tầng Tu Di.
Nơi đây chẳng khác gì với Cổ giới, một thế giới của trăng và nước. Mặt trăng khổng lồ trôi nổi ở phía cuối chân trời, điểm sao cho mặt nước mênh mông.
Linh lực dồi dào không ngừng tụ tập rồi phân tán. Lúc tụ tập thì huyễn hóa thành cây cối đâm chồi nảy lộc trên đại dương lung linh, lúc phân tán thì hóa thành phấn hoa, cuốn theo gió mát.
Mạc Nguyệt vừa đáp xuống mặt nước thì...
...
Sao?
Mọi người không cảm thấy hứng thú với vẻ đẹp của Cổ giới, không muốn theo dõi hành trình của Mạc Nguyệt?
Thôi được! Vậy thì chúng ta lại rời Tu Di sơn, trở lại với khung cảnh khô cằn và ảm đạm của địa ngục.
...
Tay đẫm máu
Chân đạp máu
Tâm nhuộm máu
Không thấy máu.
...
Sau ba bốn thập niên thì A Nhất cũng không còn để ý đến thời gian nữa, toàn bộ tâm trí của hắn đã được dùng vào việc duy trì tâm pháp Vạn Thánh kinh.
A Nhất mãi niệm không phát hiện rằng bên trong quan tài của hắn lúc này có một vị thánh đang nằm nhắm mắt, hình dáng và y phục không khác gì hắn cả.
Đây chính là đệ nhất thánh của Vạn Thánh kinh.
Lúc ở Lam La sâm lâm, cũng nhờ có Vạn Thánh kinh mà Tịch Diệt đạo tổ mới dễ dàng dụ dỗ A Nhất gia nhập Âm Ảnh tông.
Khi Tịch Diệt đạo tổ thi triển Vạn Thánh Kinh thì xuất hiện rất nhiều thánh nhân muôn màu muôn vẻ, làm đủ mọi tư thể đứng, nằm, ngồi, trông rất hoành tráng.
Trong tưởng tượng của Tịch Diệt đạo tổ, người sáng tạo ra môn tâm pháp này, sau khi tu luyện đến tầng cao nhất thì vạn thánh đồng loạt xuất hiện, một tiếng ngâm có thể chấn nhiếp quần hùng, oai lực không thua gì bí pháp của Thất Tâm môn.
Lại nói đến "thánh nhân" đang nằm trong quan tài của A Nhất, cỗ hư ảnh này tuy không có dáng vẻ tiên phong đạo cốt như của Tịch Diệt đạo tổ, thế nhưng nó lại vô cùng chân thật và sống động.
Nhưng mà hư ảnh vẫn chỉ là hư ảnh, tinh thần của A Nhất không phát giác được sự tồn tại của nó.
Ngay cả tâm nhãn có thể nhìn thấu được nhân quả của Diêm Đế cũng không phát hiện ra được nó, vị vương giả khổng lồ vẫn nhắm mắt bất động.
Đệ nhất thánh bất chợt ngồi dậy, chậm rãi quay đầu, đôi mắt vô thần nhìn chằm chằm cây Lục Đạo tích trượng đang cắm ở bên cạnh.
Những khoen sắt vàng óng của tích trượng chợt rung lên dữ dội khiến Diêm Đế mở mắt.
Khi gã nhìn thấy nó thì nó cũng quay đầu nhìn gã.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, nó đã mất hứng thú với Diêm Đế, lại quay đầu nhìn Lục Đạo tích trượng.
Một tia kinh diễm hiện lên trong mắt của Diêm Đế, gã cuối cùng cũng hiểu ra được một phần nào lý do vì sao sổ sinh tử lại bị thay đổi, vì sao Mê Trì địa ngục lại trở nên rối rắm đến vậy.
Diêm Đế thở dài, thầm than:
- Chấp mê bất ngộ!
...
Nói rồi, người khổng lồ đứng dậy, bộ đế bào trên người dần hóa thô ráp rồi biến dạng thành bộ chiến giáp đen bóng, che kín mặt.
Hai chiếc sừng trâu cong dài vừa đâm ra từ hai bên mũ giáp xong thì trên khoảng đất trống ở giữa A Nhất và bộ giáp khổng lồ xuất hiện biến hóa.
Sỏi đá vốn khô cằn lại bắt đầu rỉ máu.
Máu tụ thành nội tạng, nội tạng nuôi dưỡng xương trắng. Xương trắng lại làm khung cho mỡ và thịt.
Thế nhưng mà huyết nhục lại không có da, nên đau đớn. Cơn đau này chỉ có người bị thiêu sống mới có thể thấu hiểu.
Người máu lăn qua lăn lại trên nền sỏi đá sắt nhọn. Nơi có cát bụi bám vào, một chút da khô sẽ được tạo dựng.
Bởi cát bụi từ bi.
Nhưng mà thân thể đẫm máu tham lam, muốn được nhiều da hơn nên cố sức lăn lóc. Đá sỏi không vừa lòng rạch vào ra thịt non.
Tuy làn da tạo dựng nhanh hơn bị phá hủy, nhưng mà chẳng nhanh hơn được bao nhiêu.
Đây cũng không phải là cực hình của địa ngục mà chính là hậu quả của việc người tham gia thí luyện không được nhập quan hạ thổ đúng cách, không có quan tài để nương thân.
Thân thể trơn trượt trên đá khô, phế phổi và hộp âm vừa được hình thành cất tiếng tru thảm.
...
Âm thanh của nam nhân lại cao vót, bén nhọn như kim mài đá, đâm vào tai của A Nhất làm hắn đau đớn kêu:
- Sư điệt!
Hắn nhận ra được đó chính là Khinh Lôi, người nhỏ nhất trong Tứ Đế, vị sư điệt hiền hậu có gương mặt bầu bĩnh và đôi mắt to tròn.
A Nhất muốn đứng lên, đi gom góp chút bụi đất mềm để giúp huyết nhân tạo dựng da thịt mau hơn, thế nhưng chiếc ghế đá vẫn giữ chặt lấy hắn.
Đôi mắt mù lòa nhìn về phía Diêm Đế, van xin:
- Tiền bối! Van xin người rủ lòng thương!
Bộ giáp sắt khổng lồ vẫn vô tình đứng ở đó.
- Cầu xin người mà tiền bối! Cầu xin người cho chút cát bụi.
Bộ giáp sắt vẫn thờ ơ, bởi đây không phải nhân quả của hắn.
Không thể nhờ cậy được người, A Nhất hướng về phía Huyết Nhân, cố an ủi:
- Sư điệt cố chịu đựng! Sư thúc đến rồi! Mọi việc sẽ ổn thôi ha! Sư thúc sẽ đưa sư điệt về nhà! Sư thúc biết ngươi rất nhớ nhà, có phải không? Đã lâu như vậy rồi mà...
Tiếng an ủi nghẹn ngào từng đợt.
- Ở trên Nhân giới, sư thúc đã trở thành Nhân Hoàng rồi đó! Người ta còn xây tượng thờ sư thúc nữa đó! Sư điệt nói xem có oai phong không?
Cơ thể máu thịt bầy nhầy trên đất vẫn giãy dụa như cá mắc cạn, lăn đến dưới chân A Nhất, trong tròng mắt trợn ngược không hề có chút lý trí.
Thấy không có hiệu quả, A Nhất nuốt nước mắt, tụng Vạn Thánh Kinh:
- ...Một hạt bụi, một thế giới. Mỗi thế giới, vạn thánh nhân... Một thánh nhân, một thời gian. Mỗi thời gian, vạn hạt bụi...
Thánh nhân bên trong quan tài của A Nhất cũng mở miệng lải nhải, nhưng không phát ra thanh âm nào.
Lục Đạo tích trượng rung lên bần bật, leng keng không ngớt.
A Nhất từng bị thiêu sống, thậm chí còn phải chịu đựng nỗi đau của Thân căn bị phá hoại, cho nên hắn đồng cảm được với Kinh Lôi.
A Nhất là một trưởng bối có trách nhiệm như vậy đó.
Khi tiếng tụng niệm chạm tới tận cùng của khốn khổ, một khoảnh khắc an bình ập đến với cỗ máu thịt be bét.
Kinh Lôi nghe được lời dạy bảo của tiểu sư thúc:
- Khinh Lôi! Tay! Bàn tay!
Khinh Lôi hiểu!
Hắn dùng một chút lý trí mà A Nhất mới đem cho để lật người quỳ trên đất, sau đó lấy hết dũng khí xoa bàn tay đỏ hỏn của mình lên nền đá đỏ.
Bởi vì muốn góp chút cát bụi nên hắn không thể xoa hai lần một nơi. Hắn vừa xoa vừa tiến về trước.
Máu mủ trên tay giúp hắn trượt đi nhanh hơn.
A Nhất không nói gì nữa. Hắn chỉ ngồi đó, nghiến chặt răng. Hắn muốn cỗ vũ cho sư điệt thế nhưng không thể.
Bây giờ nếu hắn mở miệng, tiếng hét của hắn đảm bảo sẽ bi thống và du dương hơn cả của người máu đang nghịch đất kia.
Đã lâu lắm rồi nam tử mù lòa không được hưởng thụ nỗi đau đớn đến muốn chết đi sống lại này. Nhưng mà hắn không thể hét lớn, hắn phải tỏ ra mạnh mẽ.
Đệ nhất thánh thay Thiên Âm chi hồn niệm Vạn Thánh Kinh.
...
Ở nơi tận cùng của cõi Vô Minh, U Linh giáo chủ, Huyền, vẫn nằm dài trên đài sen đen tuyền. Vương bào cao quý trên người cũng môt sắc đen, hòa vào vô tận hư không ở xung quanh.
Trước mặt nam tử có chiếc gương soi đang chiếu cảnh sắc ở tầng cuối cùng của địa ngục.
Không có gì thú vị nên hắn ngáp dài rồi truyền một niệm cho Tĩnh, tên song sinh ở trên lên đỉnh Tu Di.
- Tiểu Tĩnh! Ta chán quá! Kẻ này hở một chút là khóc sướt mướt làm ta nản nhìn cái mặt của hắn quá.
Dĩ nhiên là Tĩnh không trả lời.
Huyền nảy sinh một ý tưởng táo bạo, ngồi bật dậy nói:
- Ta biết rồi! Hay là chúng ta cho ba tên đồ đệ đi theo phò tá hắn leo đỉnh Tu Di tìm ngươi để thỉnh kinh? Một con khỉ, một con heo và một con... đầu hói?
Gần đó có gốc U Linh chi thụ không lá đang lắc lư. Trên một cành cao, chiếc đầu của Đường Tử Hàm, thành chủ Lam Sương thành, vẫn còn rất tươi mới.
- Chúng ta biến một con rồng thành ngựa cho hắn cưỡi vậy là đủ bộ rồi... A! Chân Long kia cũng không tệ.
Huyền vỗ tay cười nói:
- Quyết định như vậy đi!
Pháp luân to lớn phía sau lưng của Tĩnh chạy lỡ một nhịp.