Tinh Hà Rực Rỡ, May Mắn Thay

Chương 159:




Nghị sự kết thúc, Hoàng đế không vui tuyên bố bãi triều, đồng thời cho gọi bốn năm trọng thần tâm phúc đến Bắc cung thảo luận, ông định gọi Hoắc Bất Nghi đi cùng, song lại thấy Thái tử đen như đít nồi bèn nháy mắt với con nuôi. Thực tình Hoắc Bất Nghi không muốn đi lắm, chàng muốn nhanh chóng về phủ giải quyết Lạc Tế Thông, nhưng xui xẻo bị cha nuôi giữ lại nên đành theo Thái tử về Đông cung.
“Quả là làm bậy, to gan hơn trời!” Thái tử giật mũ miện ném xuống bàn, những viên minh châu sáng lấp lánh nhanh chóng rơi xuống đất.
Trong hậu điện Đông cung, hai bên trái phải trong phòng nghị sự mỗi bên ngồi ba bốn người, đó là những triều thần mặc triều phục hai màu đỏ đen, hoặc là mưu sĩ áo chùng rộng rãi. Giờ thấy Thái tử nổi giận, bọn họ nhao nhao phụ họa.
“Điện hạ nói chí phải!” Một người chắp tay, cao giọng nói, “Triều đình ban lệnh độ điền là để kiểm tra ruộng đất và dân số các châu quận huyện, tiện bề thu thuế quản lý. Người trong thiên hạ, thiên hạ quy xã tắc; người ở xã tắc, xã tắc quy triều đình, kiểm tra điền thổ dân khẩu vốn là lẽ đương nhiên, vậy mà có kẻ dám nghi ngờ!”
Một người khác cao giọng hùa theo: “Đúng vậy! Chiến tranh liên miên mấy chục năm, mãi hôm nay mới đến ngày thống nhất thiên hạ. Điền thổ dân khẩu tiền triều ghi lại đã khác xa hiện tại, nếu không kiểm tra lại thì trị quốc thế nào!”
Một thanh niên nhìn sắc nét chế nhạo: “Chư vị vẫn chưa nói đến điểm quan trọng! Ruộng nương nhân số vốn vô chủ, sở dĩ lệnh độ điền bị nhiều người phản đối là vì có kẻ sợ triều đình hạn chế bọn họ khoắng thổ địa gia súc nô bộc! Đến lúc ruộng đất nhân khẩu trong thiên hạ thuộc về phú hộ hào cường thì triều đình đi đâu thu thuế, tìm ai lao dịch?! Tới khi ấy, thiên hạ còn là thiên hạ của triều đình nữa không!”
“Thiếu Thừa cẩn trọng!” Nhị phò mã ngồi bên phải ngay dưới Thái tử cất tiếng, “Đừng nói quá lên như vậy, nếu lời này bị truyền đi thì ngươi không xong đâu.”
Thái tử định lên tiếng khen ngợi thì đã bị Nhị tỷ phu nhà mình ngăn cản, thế là nói: “Tử Thịnh, ngươi nói xem thế nào?”
Hoắc Bất Nghi ngồi bên trái ngay dưới Thái tử, mỉm cười bảo: “Chư vị nói rất đúng.”
“Ta thực sự không tán thành cách nói của phò mã Đô úy, bây giờ thiên hạ vừa bình định, vốn không có chuyện ruộng đất dân khẩu bị chiếm, chứng tỏ đám cường hào đại tộc nọ…” Thiếu Thừa nói to.
“Mời chư vị nghe ta nói.” Một văn sĩ trung niên ngắt lời, “Nếu lời của hai vị vừa rồi phát biểu trong buổi chầu hôm nay, ắt hẳn sẽ bị chỉ trích. Hoặc sẽ nói gia tộc phò mã mấy đời là công khanh, rất khó kiểm kê nhân khẩu ruộng đất, nên mới không quan tâm; hoặc sẽ nói Thiếu Thừa gia cảnh bần hàn, đang chờ những gia đình sung túc nhả ra ruộng đất hòng chiếm làm riêng.”
Thiếu Thừa nổi giận: “Hàm hồ!”
Nhị phò mã: “Tử Thịnh có ý gì không.”
Hoắc Bất Nghi nhìn sắc trời: “Đều có lý cả.”
“Hừ!” Thái tử siết tay đặt lên đầu gối, “Phụ hoàng quá nhân từ. Những ‘thế gia binh trưởng’ kia có người có đất có binh khí, nên mới ngông nghênh không tuân thủ lệnh độ điền ngay trước mặt mệnh quan triều đình! Quan lại địa phương cũng sợ bọn họ, còn nhận hối lộ để mặc chúng lừa gạt giấu giếm khai báo, đẩy toàn bộ phần thiếu lên đầu bình dân, để dân chúng gánh sưu cao thuế nặng và lao dịch. Hừ hừ, cô thấy chính quan phủ ép dân tạo phản!”
Nhị phò mã cười: “Điện hạ nghĩ thử nghĩ theo chiều tốt đi. Có thể thấy hào tộc cũng không phải một tay lấp trời, tham quan cũng chưa chắc cứng rắn. Có người cấu kết với cường hào địa phương, gieo họa bách tính, cũng có hạ thần chính trực cảm thấy bất bình, trong những ngày qua đã bẩm báo chuyện phạm pháp này lên triều đình.”
Một thanh niên mắt to mày rậm cao giọng cười nói: “Từ khi đón dâu là công chúa về, Đô úy nói toàn lời dễ nghe nhỉ, như được rưới gió xuân!”
Mọi người trong điện bật cười, Thiếu Thừa nói: “Dám hỏi Thái tử điện hạ, ý của ngài như thế nào.”
Thái tử trầm giọng: “Cô muốn tấu lên phụ hoàng, cường hào đại tộc lừa gạt khai man khép tội tất; cần chém đầu thì chém, cần diệt tộc thì diệt!”
Vừa dứt lời, một số vị đại nhân mà dẫn đầu là Thiếu Thừa lên tiếng khen ngợi. Nhị phò mã lại nói: “Điện hạ, thần cho rằng như vậy không ổn, bệ hạ cũng không tán thành.” Những người ngồi sau lưng y cũng tán đồng.
Thái tử nhìn Hoắc Bất Nghi, Hoắc Bất Nghi nhìn quanh, mọi người không ai nói gì. Mới đầu hắn nghĩ, chi bằng để cha nuôi Hoàng đế tự dạy dỗ con trai đi, nhưng nghĩ đến Hoàng đế lẫn Thái tử đều rất thân thiết với mình, chàng bèn mở lời: “Điện hạ, thần hỏi điện hạ một câu, nếu như tra đại tộc cường hào có mười thì hết tám chín giấu giếm che đậy, lẽ nào điện hạ muốn chém đầu diệt môn tất cả?”
Thái tử im lặng, Thiếu Thừa cao giọng: “Vũ đế tiền triều từng ban chiếu chỉ lệnh dời Mậu Lăng, ra lệnh hào tộc thiên hạ phải di dời theo, lấy đó lung lay suy yếu thế lực cường hào, cớ gì bệ hạ của chúng ta lại không thể?!”
Mọi người cười nhạt: “Vũ đế còn rất hiếu chiến, lẽ nào ngươi cũng muốn bệ hạ noi theo?”
“Ngươi…” Thiếu Thừa nổi giận.
“Đủ rồi!” Thái tử nói.
Trong điện lặng thinh, Thái tử nhìn quanh một vòng, trầm giọng ra lệnh: “Các ngươi lui xuống hết đi, phò mã Đô úy và Tử Thịnh ở lại.”
Mọi người tuân lệnh hành lễ, nối đuôi lui ra, chỉ có Thiếu Thừa phẫn nộ nhưng cuối cùng vẫn bị đồng liêu kéo đi.
Trong điện chỉ còn lại ba người, Thái tử liếc Hoắc Bất Nghi: “Có vẻ ngươi không quan tâm cũng không lo lắng gì, không sợ những ‘đại tộc binh trường’ kia hại nước hại dân hả.”
Hoắc Bất Nghi mỉm cười thưa: “Đa số hào tộc sẽ không thuận theo. ‘Cải cách mới’ của Lệ đế tiền triều còn sờ sờ trước mắt, nếu làm lớn chuyện, bọn họ rất sợ sẽ lại lần nữa thực hiện chế độ “vương điền” – tức mọi đất đai sông ngòi núi non đều thuộc sở hữu triều đình*. Bây giờ bệ hạ chỉ mới độ điền, chẳng qua trọng lòng bọn họ cảm thấy không vui, chỉ cần bệ hạ cương quyết cứng rắn, tất bọn họ sẽ nghe theo lệnh.”
(*Chế độ “vương điền” là chính sách cải cách chủ đạo của Vương Mãng – vị Hoàng đế duy nhất của nhà Tân: Đất đai thuộc sở hữu triều đình, tư nhân không được phép mua bán. Phân phối lại ruộng đất, không có tá điền, trên nguyên tắc mỗi cặp vợ chồng được chia 100 mẫu.)
Thái tử lại hỏi: “Vì sao phụ hoàng không thể bắt chước lệnh dời Mậu Lăng?”
Hoắc Bất Nghi thầm nhủ: Tại sao ư? Đợi đến lúc bệ hạ đánh ngài một trận thì ngài khắc hiểu. Nếu đánh một trận vẫn không đủ thì có thể hai trận. Nhưng chàng vẫn kiên nhẫn giải thích.
“Trước khi Cao Hoàng đế thống nhất thiên hạ, thiên hạ đã chiến tranh mấy trăm năm. Dưới thời nhà Chu, phong quân chư hầu đan xen với tiến đánh thảo phạt, không nghỉ một khắc nào. Về sau Thủy Hoàng đế càn quét tứ phương, một phen chinh chiến; đáng tiếc chẳng yên được bao lâu, quần hùng lại khởi nghĩa phản đối bạo Tần, lại một hồi khói lửa; mãi Hạng vương mới diệt được Tần, tiếc thay phân phong chư hầu không công bằng, nên không lâu sau Cao Hoàng đế đã khởi binh phản Hạng, tiếp tục chinh chiến; cuối cùng Sở Bá vương tự vẫn tại trấn Ô Giang, số hào kiệt tranh giành thiên hạ ngày trước chỉ còn lại không quá một bàn tay. Sau khi dựng nước, Cao Hoàng đế lại gần như đánh thiên hạ một lần nữa, từng bước loại trừ những chư vương khác họ, Lã hậu Văn đế nghỉ ngơi khôi phục, đến thời Cảnh đế lại trừng trị những chư vương cùng họ. Nói ra mới thấy, thiên hạ nhiều năm chinh chiến, chớ nói dân chúng lầm than thế nào, mà ngay cường hào thế gia cũng chỉ còn lại một hai…”
“Ngươi nói những chuyện này làm gì?” Thái tử nhíu mày.
Hoắc Bất Nghi nói: “Ý thần là, chuyện này phải trách bệ hạ không tốt.”
“Tử Thịnh đừng nói bừa.” Nhị phò mã căng thẳng.
Hoắc Bất Nghi mỉm cười: “Bệ hạ quá anh minh thần vũ, thống nhất thiên hạ quá nhanh. Xây lại phế tích thực ra dễ dàng hơn đổi mới cục diện cố hữu. Vũ Hoàng đế có thể ban hành lệnh dời Mậu Lăng, thứ nhất ông ta là người tàn nhẫn; thứ hai, đại tộc cường hào lúc ấy không lớn mạnh như hiện nay. Nói trắng ra, Lệ đế soán vị rồi sau đó thiên hạ đại loạn, nhưng loạn không đủ lâu. Các thế gia hào tộc ấy bị thương gân động cốt trong thời loạn, gốc rễ vẫn chưa bị phá hủy. Nhưng những lời mất lòng như vậy có thể nói ra được không?”
Thái tử im lặng, Nhị phò mã thở phào.
“Triều ta kế tục thiên hạ của tiền triều, cho nên thống nhất thiên hạ nhanh hơn rất nhiều, nhưng vì vậy cũng đã kế thừa nhiều tệ nạn của tiền triều. Như Lâu gia, Lương gia, Viên gia, Cảnh gia, à, và cả Đậu gia của phò mã Đô úy… Bọn họ không phải gia tộc được bệ hạ nâng đỡ mà trái lại, khi bệ hạ khai quốc còn được họ giúp đỡ rất nhiều. Như Viên gia Lương gia chẳng hạn, chính họ dẫn các quận đến phò tá bệ hạ. Bá phụ đại nhân của phò mã năm ấy thống lĩnh bốn quận Hà Tây, bách tính yên an, binh hùng tướng mạnh, không phải cùng đường nhưng vẫn thành tâm theo bệ hạ. Thái tử điện hạ, điện hạ cho rằng bệ hạ đã làm thế nào?”
“Người ta đến quy phục, lẽ nào bệ hạ không nhận? Những năm qua, chư vị đại nhân hết lòng chinh chiến vì bệ hạ, lẽ nào là để bệ hạ giơ đao chém giết? Không phải Hoàng đế nào cũng có thể làm chuyện bức tử công thần, tru di tam tộc. Chí ít bệ hạ của chúng ta không làm được.”
Thái tử nghĩ đến Chu Á Phu*, không kiềm được thở dài.
(*Chu Á Phu là nhà quân sự và thừa tướng nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, con trai quan đại thần khai quốc nhà Hán, lập được công lớn cho nhà Hán. Cuối đời, Chu Á Phu bị Hán Cảnh Đế nghi kị, bắt bỏ ngục. Ông uất ức, tuyệt thực 5 ngày, cuối cùng thổ huyết mà qua đời.)
Nhị phò mã rơm rớm nước mắt, thật lòng chắp tay với Hoắc Bất Nghi: “Lời này của Tử Thịnh, ngay tại đây ta xin được cảm tạ!” Ngẩng đầu lên, y nói, “Hai chữ công thần, nói thì dễ nhưng làm mới khó. Cũng không lạ khi bệ hạ và điện hạ có băn khoăn trong lòng, vì lập lại trật tự thiên hạ, bằng mọi giá phải tiến hành độ điền, nhưng con cháu những nhà chiến công như bọn ta quá đông, có khi khó tránh khỏi xảy ra sự cố, ngăn trở đại kế của triều đình…”
“Được rồi” Thái tử trợn mắt với phò mã, “Ngươi là ngươi, nhà ngươi là nhà ngươi. Nếu không tránh đường huynh nhà ngươi đố kỵ thì ngươi đã không phải giấu tài cho đến hôm nay, suốt ngày ngâm thơ làm khúc với Nhị tỷ, thực vô công rồi nghề.”
Nhị phò mã cười: “Thực ra ngâm thơ làm khúc, nhàn nhã qua ngày cũng là một kiểu tự do.”
“Thôi đi!” Thái tử tức giận quay đầu, hắn nghi ngờ nhìn Hoắc Bất Nghi, “Sao cô có cảm giác, hôm nay ngươi rất… rất phấn khích…?”
“À, thế à.” Lông mi Hoắc Bất Nghi vừa dài vừa cong, đôi mắt tuấn tú như đầm sâu, dù không nói thêm nhưng đối phương vẫn dễ dàng phát hiện sự thoải mái ở chàng.
Nhị phò mã bật cười, Thái tử hỏi y vì sao, y nói: “Có lẽ điện hạ không biết, mấy hôm trước, Tử Thịnh nhờ ta nghe ngóng một chuyện – độ điền từ Thái thú Vạn Tùng Bách có thỏa đáng không?”
Thái tử không nhớ nổi lý do duyên cớ, Nhị phò mã nhắc nhở: “Vạn Thái thú và Trình Hiệu úy là huynh đệ kết nghĩa.”
Thái tử ngẩn ra, sau đó ồ một tiếng đầy ngầm ý.
Hoắc Bất Nghi ôn tồn nói: “Dám hỏi Đô úy, tình hình của Vạn Thái thú thế nào rồi.”
Nhị phò mã cười nói: “Ngươi yên tâm, ta đã tra hỏi cẩn thận. Vạn Thái thú và thân tộc có bất hòa, nên tộc nhân của Vạn gia không thể cậy thế hiếp người, công việc độ điền nhà họ Vạn gia tại Tùy rất suôn sẻ. Còn ở quận Từ, Vạn Thái thú có nhân mã có tài sản, thứ nhất không sợ cường hào địa phương lấn át, thứ hai không cần kẻ ngoài hối lộ, nên việc độ điền tại quận Từ cũng rất trôi chảy.”
Hoắc Bất Nghi yên tâm, sau đó trở mặt: “Đô úy đại nhân quả là đáng giận, năm đó huynh hỏi thăm ta về thói quen thường ngày của Nhị công chúa, ta chưa bao giờ tiết lộ với người ngoài. Không ngờ bây giờ Đô úy đại nhân lại tiết lộ chuyện ta nhờ cậy, cũng tốt, vậy ta sẽ nói lại với bệ hạ và điện hạ. Có lẽ điện hạ còn không biết, năm đó khi bệ hạ chưa gả con gái, phò mã với công chúa đã ở trong vườn…”
“Dừng dừng!” Nhị phò mã đỏ mặt tía tai, “Được rồi được rồi, là lỗi của ta! Ngươi đừng nói, nể tình từ nhỏ công chúa đối xử với ngươi không tệ, nể tình lần trước… À…”
Y chợt nghĩ đến một chuyện, “Phải rồi, ta vẫn chưa tính sổ với ngươi đây! Thần kể điện hạ chuyện này, ba năm trước thần vượt núi băng đèo đường xá xa xôi tới biên thành thăm hắn ta, nào ngờ hắn còn giả vờ không quen biết thần! Hại thần tìm loanh quanh trong doanh trại chẵn một ngày trời, còn tưởng mình tìm nhầm chỗ!”
Hoắc Bất Nghi cười nói: “Ai bảo huynh ăn mặc chói mắt lòe loẹt như thế, biên thành cơ cực, các tướng sĩ rất ghét con cháu thế gia ăn vận sang trọng!”
Thái tử không kìm được cười phá lên. Cười tận hứng, hắn mới nghiêm nghị nói: “Theo Tử Thịnh thấy, phụ hoàng sẽ xử lý chuyện hào tộc địa phương chống đối chuyện độ điền như thế nào?”
Hoắc Bất Nghi suy nghĩ, đáp: “Bệ hạ sẽ xử lý những Thái thú khai man ruộng đất nhân khẩu trước, có lẽ sẽ giết vài người – xét cho cùng bọn họ mới là trọng thần triều đình. Dám lừa dối quốc pháp, bọn họ đáng tội. Sau đó triều đình gấp rút độ điền, xem thái độ của hào tộc địa phương như thế nào. Nếu lúc này nhượng bộ, nghiêm túc phụng lệnh thì thôi; còn nếu vẫn ngoan cố chống đối, thậm chí dấy binh làm loạn…” Chàng không nói nữa, chỉ dùng hàn quang nơi đáy mắt tỏ vẻ.
Thái tử gật đầu, hắn cũng nghĩ như vậy, rất phù hợp với thói quen cho mọi người một đường sống lựa chọn lại của cha ruột. Rồi hắn hỏi tiếp: “Phò mã nghĩ thế nào.”
Nhị phò mã đang lau mồ hôi lạnh vừa bị Hoắc Bất Nghi hù dọa, nghe thấy vậy thì mắng: “Ngoài hôn sự của mình ra thì hầu như hắn chưa từng đoán sai những chuyện lớn nhỏ nào khác.”
Đã bàn xong chính sự, Hoắc Bất Nghi đứng dậy cáo lui, vốn Thái tử còn định hỏi chàng đôi câu hôn sự tiến hành như thế nào, nhưng bị ánh mắt của Nhị phò mã ngăn cản, đành đưa mắt nhìn Hoắc Bất Nghi rời đi.
Nhìn bóng lưng to cao khỏe mạnh của Hoắc Bất Nghi, Nhị phò mã không khỏi bùi ngùi: “Nếu không vì cẩu tặc Lăng Ích làm chuyện ác, hại thân nhân chết thảm, thì trong đô thành này Tử Thịnh ắt hẳn là người hùng dũng bệ vệ nhất, là nhi lang phóng khoáng ngay thẳng nhất. Hầy, thật là tạo hóa trêu ngươi.”
Thái tử cũng thở dài.

Quay về dinh, Hoắc Bất Nghi nghe báo Lạc Tế Thông vẫn chưa đi thì về phòng thay thường phục rồi tới gặp.
Lạc Tế Thông bất an ngồi ở phòng bên, thấy Hoắc Bất Nghi bước vào, nàng ta căng thẳng ngồi dậy.
Hoắc Bất Nghi không nhìn nàng ta, nói thẳng: “Ta tưởng cô đã biết rồi, không ngờ hôm nay vào triều mới nghe nói cha cô vẫn còn ở ngoài thành. Ta đoán, có lẽ cô chưa biết ta đã nói gì với cha cô.”
Lạc Tế Thông chợt cao giọng: “Ta đã thấy vết cắn trên tay Trình Thiếu Thương!”
Hoắc Bất Nghi xoay người, nhìn nàng ta một lúc rồi chầm chậm vén tay áo của mình lên, quả nhiên trên tay phải cũng có một vòng dấu răng đã đóng vảy, màu hồng đậm.
“… Quả nhiên, quả nhiên là thế.” Lạc Tế Thông ngồi phịch xuống ghế, lẩm nhẩm, “Ta còn thắc mắc vì sao huynh thường sờ tay phải.” Nàng ta chợt ngẩng đầu lên, “Những năm qua, huynh chưa hề quên nàng ta?!”
Hoắc Bất Nghi ngầm thừa nhận.
“Tại, tại sao huynh lại đối xử với ta như thế?” Nước mắt dính trên làn mi Lạc Tế Thông, “Từ nhỏ huynh đã không cho phép bất cứ ai lại gần, nhưng vẫn để ta nhúng tay vào chuyện trong phủ của huynh, ta tưởng huynh đồng ý tiếp nạp ta, ai ngờ hóa ra chỉ là giấc chiêm bao! Huynh, huynh lừa ta hay thật đấy!”
Hoắc Bất Nghi chỉnh sửa: “Không phải lừa, chỉ là gây hiểu nhầm.”
Lạc Tế Thông khóc không thành tiếng: “Cớ gì huynh lại làm thế với ta! Ta đối xử với huynh bằng cả tấm chân tình, huynh không muốn đón nhận thì thôi, tại sao còn lừa phỉnh làm chậm trễ mấy năm thanh xuân của ta!” Nàng ta nức nở ngước nhìn, “Bao năm như thế, lẽ nào huynh không hề có phân nửa tình cảm với ta?”
Hoắc Bất Nghi suy nghĩ, sau đó nói thẳng: “Không hề.”
Sắc mặt Lạc Tế Thông tái nhợt.
“Hai ta quen nhau từ trước khi Thiếu Thương xuất hiện, nể tình những năm qua cô có ích với ta, ta sẽ cho cô biết tất cả.” Hoắc Bất Nghi chắp tay sau lưng, đứng bên cửa sổ, “Từ lâu ta đã biết Ngũ công chúa là người như thế nào, độc ác, hẹp hòi, kiêu ngạo dâm loàng, vậy mà Lạc nương tử nổi tiếng hiền thục minh lý như cô lại có thể làm bạn lâu dài nàng ta. Cô nói xem, ta có cái nhìn thế nào về cô.”
Lạc Tế Thông không phục hét lên: “Ta là vì cha anh người nhà! Con cháu Lạc thị bình thường, nếu ta không dựa vào Ngũ công chúa thì Tuyên nương nương giúp đỡ nhà ta thế nào!”
“Nên cô đã trơ mắt nhìn Ngũ công chúa trượng tễ tiểu cung nữ vô tội, nhìn tiểu nữ nương của ta chết chìm dưới hồ, sau đó cô bao che cho nàng ta trước mặt nương nương?”
Lạc Tế Thông cứng họng.
Hoắc Bất Nghi lạnh lùng nói: “Nhưng khi ấy ta chỉ cho rằng cô là kẻ tham lam quyền thế, mãi đến cái năm Hoài An vương Thái hậu tổ chức thọ yến, ta mới biết hóa ra mình đã nhầm. Không ngờ cô lại là kẻ độc ác như vậy.” Chàng nhếch mép, nói với vẻ châm biếm, “Ta hỏi cô, thị tỳ thiếp thân Xuân Điều của cô đã chết như thế nào?”
Lạc Tế Thông kinh ngạc, lắp bắp nói: “Nàng, nàng… Không phải Ngũ công chúa…”
Hoắc Bất Nghi cười lạnh: “Ai ai cũng nghĩ là Ngũ công chúa đã ra tay, nhưng sau đó ta mới phát hiện không đúng. Con gái xuất thân thế gia như cô thì không thể dùng một thị nữ thiếp thân mua đại ngoài đường được, mà hầu hết là cả nhà già trẻ phục vụ tại Lạc phủ. Như Thiếu Thương chẳng hạn, thị tỳ thiếp thân của nàng ấy đều là con gái của bộ khúc của Trình Hiệu úy. Một tỳ nữ bị Lạc gia nắm trong tay toàn thể gia đình lớn bé già trẻ, sao có thể dễ dàng bị Ngũ công chúa mua chuộc?”
“Còn nữa, sau khi xảy ra chuyện, Ngũ công chúa thú nhận chuyện hãm hại Thiếu Thương rất dứt khoát, với tính tình đanh đá cậy mạnh vô tâm của nàng ta, ắt sẽ không nhọc công giết một tỳ nữ diệt khẩu, vì nàng ta không sợ bị vạch trần. Người muốn diệt khẩu là cô, đúng không Lạc nương tử? Đáng tiếc, đợi khi ta tra ra manh mối thì cô đã xuất giá đến Tây Bắc xa xôi.”
Lạc Tế Thông lau nước mắt, cười lạnh nói: “Xem ra huynh đã có kết luận về ta? Đã như vậy, vì sao dễ dàng để ta lại gần huynh.”
“Nếu cô thực sự là người tốt bụng, chắc chắn ta sẽ cách xa cô.”
Lạc Tế Thông căm hận: “Huynh chỉ thấy mặt xấu của ta, lại không nhìn thấy được điểm tốt nào của ta sao? Ta tuân thủ lời hứa, tận tâm hầu hạ vong phu và song thân Cổ thị…”
Hoắc Bất Nghi cười giễu: “Lạc nương tử đừng vờ vịt nữa, người khác không đoán được dụng tâm của cô, nhưng không qua nổi mắt của ta đâu. Mấy chục năm qua Lạc thị yếu đuối, nữ nương trong tộc luôn phải thành thân để kết giao với nhà quyền quý. Chị em cô bác nhà cô chấp nhận số mệnh, nhưng cô không muốn, biết rõ nhi lang Cổ gia yếu ớt nhiều bệnh mà vẫn ra vẻ đại nghĩa muốn cưới, nhưng đồng thời cũng làm như oan ức tủi thân, cho nên lệnh tôn lệnh đường đã hứa với cô, đợi lúc cô tái giá, mọi chuyện đều do cô làm chủ. Sao, ta nói không sai chứ.”
Lồng ngực Lạc Tế Thông như lửa thiêu cháy, hét to: “Phải thì đã sao? Lần đầu thành thân là bởi song thân, lần sau tái giá tự bản thân, ta thủ tiết rồi tự ta làm chủ cho mình thì có lỗi lầm gì! Huynh tưởng ta chưa hỏi thăm những nhà muốn cưới ta lúc ấy ư, bọn họ nhìn hiển hách đấy, nhưng bằng lòng cưới ta toàn là những kẻ không ra hồn, muốn ta dạy dỗ con trai giúp họ! Cổ gia cũng là nhà giàu có, cưới những kẻ không nên thân ấy còn không bằng vào Cổ gia, chí ít còn có thể nhanh chóng tái giá! Huynh biết ta hâm mộ Trình Thiếu Thương nhiều như thế nào không, dù nàng ta xuất thân không bằng ta, nhưng cha mẹ thật lòng thật ý quyết định mọi sự cho nàng ta. Nàng ta sinh ra đã đẹp, nhưng cha mẹ nàng ta chưa từng nghĩ tới chuyện dùng nàng ta mua chuộc quyền quý!”
Hoắc Bất Nghi nhớ đến cô gái ấy, vô thức dịu dàng mỉm cười: “Chẳng qua cha mẹ nàng sợ nàng gây họa làm mất mặt, nên mới không dám gả nàng với môn hộ cao hơn. Cô đóng kịch đạt lắm, hiền lương thục đức, nhân đức hiểu đời, nên người nhà cô mới muốn gả cô với cao. Đáng lẽ ra cô phải học Thiếu Thương, bôi xấu danh tiếng… À không, cô không học nổi. Cô thích danh tiếng, yêu tiền đồ, không nỡ bỏ bên nào, cuối cùng nhẫn tâm vứt bỏ tính mạng của người khác.”
Lạc Tế Thông rét run: “Huynh có ý gì.”
Hoắc Bất Nghi nhả từng chữ một: “Chồng trước của cô, Thất lang Cổ thị, rốt cuộc đã chết như thế nào?”
Lạc Tế Thông quay cuồng trời đất, gần như không đứng nổi: “Huynh, huynh huynh…” Nàng ta định thần, “Ta không làm gì cả, huynh đừng vì bỏ ta mà ngậm máu phun người!”
“Ta chưa bao giờ làm chuyện không có mục đích.” Hoắc Bất Nghi nhìn chằm chằm nàng ta như nhắm hồng tâm, ánh mắt lạnh lẽo vô tình, “Ai ai cũng nói nương tử của Cổ Thất lang là đệ nhất phụ nhân hiền huệ trên đời, nhưng ta biết nội tình của cô. Năm ấy trong Trường Thu cung có một thái y già yếu, cô từng theo ông ta học mấy tháng. Ta nhớ thái y nọ am hiểu nhất điều chế dược thực, có những món tương khắc không ai biết thì ông ta lại biết rất rõ.”
“Sau khi Cổ Thất lang qua đời, vị đại phu Thôi Hầu dẫn đến biên thành thấy lạ, Cổ Thất lang bệnh yếu từ trong bụng mẹ, ông ta gặp rất nhiều trường hợp như vậy, cũng từng đến Cổ phủ chữa trị, cảm thấy không thể có chuyện dễ dàng ra đi trước hai mươi tuổi.”
“Song thân của Cổ Thất lang chăm sóc con trai độc nhất rất kỹ lưỡng, luôn ghi chép lại những thứ năm đó hắn ta từng ăn uống. Lạc nương tử, nếu ta bảo bọn họ kiểm tra lại những thứ đồ ăn cô đã cho Cổ Thất lang dùng, cô đoán sẽ có kết quả thế nào? Ừ, người bình thường có thể chỉ khó chịu, nhưng với Cổ Thất lang yếu đuối nhiều bệnh thì khác gì dồn vào chỗ chết.”
Lạc Tế Thông loạng choạng, nức nở khẩn cầu: “Ta không cố ý, ta chỉ vì huynh mà thôi, Thập Nhất lang! Từ nhỏ ta chỉ thích một mình huynh, thấy huynh bị thương bệnh nặng đến Lương Châu, ta chỉ muốn đến chăm sóc huynh! Là ta không bỏ được huynh!”
Hoắc Bất Nghi lạnh lùng nhìn nàng ta: “Dù Thiếu Thương nói năng khó nghe nhưng nàng ấy chưa bao giờ làm hại người vô tội. Còn cô ngoài miệng nói dễ nghe, nhưng hại người không hề nương tay. Cổ Thất lang vô tội, song thân Cổ thị phải chịu tang con trẻ, bọn họ cũng vô tội!”
“Trước sau gì hắn cũng chết!” Lạc Tế Thông hét lên.
“Con người ai cũng chết, khác biệt là thọ ngắn hay dài.” Hoắc Bất Nghi lạnh giọng nói, “Đại phu nói mình từng thấy người mắc chứng bệnh yếu như Cổ Thất lang, nhưng nhờ chăm sóc chu đáo, sau khi trưởng thành chẳng những có thể lấy vợ sinh con mà còn sống đến hơn bốn mươi. Ừ, chỉ là cô không đợi nổi.”
Lạc Tế Thông đứng thẳng, quệt mạnh nước mắt, tự giễu cười nói: “Được lắm, nếu huynh đã coi ta như rắn rết bọ cạp, vậy tại sao huynh không vạch trần hành động của ta!”
“Vì cô đã cứu mạng A Phi.”
Lạc Tế Thông ngẩn người.
Hoắc Bất Nghi nói: “Cha ông chú bác của huynh đệ Lương Khưu đã hy sinh cùng gia phụ, ta cần phải chăm sóc cho cô nhi quả phụ bọn họ. Nếu năm ấy không phải cô thả linh khuyển đi tìm thì có lẽ A Phi đã chết rét trên núi tuyết. Nên ta mới không nói sự thật cho Cổ gia biết.”
Hai mắt Lạc Tế Thông bừng sáng, nào ngờ câu cuối đã đập vỡ khao khát của nàng ta.
“Nhưng hôm qua ta đã nói với cha cô. Đợi ông ta về tới nhà sẽ lập tức xử lý cô.” Hoắc Bất Nghi nói, “Ta nói với cha cô, hoặc gả cô đi thật xa, cả đời này không quay về nữa; hoặc là cấm túc cô. Nói tóm lại vì cô đã cứu A Phi, nên ta giữ lại một mạng cho cô, coi như sòng phẳng.”
Trong lòng Lạc Tế Thông lạnh buốt, nàng ta kinh ngạc: “Ta, ta không hiểu, nếu chuyện gì huynh cũng biết, cớ gì còn để ta lại gần huynh, để mọi người, hiểu lầm huynh muốn cưới ta? Nếu huynh đã không muốn cưới ta, hà tất…”
Nàng ta trông thấy tròng mắt âm u của Hoắc Bất Nghi, lòng run lên, “À, ta biết rồi, ta hiểu ra rồi. Huynh dùng ta để ngụy trang, huynh cố ý!”
Hoắc Bất Nghi đứng bên cửa sổ, ngược chiều ánh sáng: “Năm năm trước ta đã quyết định sẽ quên đi Thiếu Thương, mong nàng ấy không chịu còn chịu đau khổ, thật tốt thành thân, sống cuộc đời bình yên. Ta không muốn làm vướng chân nàng ấy, cũng không thể để bệ hạ và điện hạ ngăn cản nàng. Có cô, mọi người mới có thể yên tâm về ta.”
Lạc Tế Thông vẫn không hiểu: “Nhưng, trì hoãn chốc lát không trì hoãn được cả đời! Đợi đến lúc Thiếu Thương thành thân, rồi huynh cũng phải lấy vợ, dù không phải ta thì sẽ có người khác, huynh cần gì…” Chợt nàng ta im bặt.
Hoắc Bất Nghi như cười như không, nàng ta lập tức hiểu ra, khó lòng tin nổi: “Huynh, huynh vốn không định cưới bất kỳ ai! Không không, không thể có chuyện đó được, huynh phải kéo dài hương khói tổ tiên cơ mà. Toàn gia tộc họ Hoắc đã bị diệt vong, sao huynh có thể chấm dứt huyết mạch chỉ vì tư lợi?!”
“Tại sao lại không.” Dưới ánh nắng lọt qua khe cửa, hai má của Hoắc Bất Nghi hoàn mỹ như ngọc mịn, “Trăm nghìn năm trước, trên đời này cũng không có Hoắc gia.”
Lạc Tế Thông căm phẫn, lồng ngực như muốn nổ tung, cắn răng nghiến lợi nói: “Ha ha ha, mọi người đã bị huynh lừa! Nhưng bệ hạ sẽ không để huynh làm thế, Thái tử điện hạ sẽ tức chết, huynh huynh…”
Hoắc Bất Nghi nhìn về nơi xa bên ngoài khung cửa, ánh mắt thâm thúy sâu lắng: “Ta đã không muốn kết hôn thì luôn có biện pháp. Còn nếu ta muốn cưới vợ, vậy chắc chắn là vì ta thực sự yêu quý cô gái ấy, chứ không phải vì bất cứ nguyên nhân nào khác.” Như song thân nặng tình yêu thương nhau của chàng.
Dẫu bao phen máu lửa hiểm trở, sâu trong lòng chàng vẫn là cậu thiếu niên cố chấp kiêu ngạo. Chàng muốn có được tình yêu như cha mẹ, muốn con cái tương lai cũng như sáu anh chị em nhà chàng, chào đời bằng tình cảm chân thành chứ không phải vì lợi ích bất hòa hay duy trì hương khói.
Nên chàng chưa bao giờ trách cứ cô mẫu Hoắc Quân Hoa, dẫu bà mù mắt nhìn nhầm người, nhưng tâm nguyện muốn cưới người trong lòng của bà chưa bao giờ là sai.
Hoắc Bất Nghi cảm thấy những gì cần nói đã nói hết, “Cô cứu A Phi một mạng, ta cũng lưu lại một mạng cho cô. Cô từng hãm hại Thiếu Thương, ta lấy cô để ngụy trang năm năm. Giờ đây ân oán đã rõ, Lạc nương tử, xin từ biệt tại đây, mời về không tiễn.” Nói đoạn, chàng phất tay áo rời đi, dưới ánh nắng vàng nhạt ngả dần về tây, thân hình chàng cao ráo, tuấn tú sáng trong.
Lạc Tế Thông ngẩn ngơ đưa mắt nhìn, đau thương xen lẫn bi ai.
Nàng ta biết mình không nhìn nhầm người, người trong lòng nàng ta hoàn toàn khác với tất cả đàn ông trên thế gian này, dưới vẻ ngoài lặng lẽ và ít nói, chàng mang trong mình một tình cảm thuần khiết và nồng nàn nhất trên đời, tiếc một điều rằng, tình cảm này không thuộc về nàng ta.
“Có chuyện này ta phải nói với huynh.” Nàng ta bất chợt hét lên theo bóng lưng của Hoắc Bất Nghi, ác ý nói, “Dấu răng trên tay phải Trình Thiếu Thương sắp lành rồi. E rằng nó đã quên hẳn huynh.”
Hoắc Bất Nghi dừng bước, không xoay người mà chỉ điềm nhiêm nói: “Có lẽ trước kia ta cắn nhẹ quá, nhưng chuyện này không phiền Lạc nương tử phải quan tâm.”
Lạc Tế Thông suy sụp tuyệt vọng, ngã phịch xuống sàn nhà.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.