Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa

Chương 18: Nếu có một ngày, tình yêu của nàng dành cho ta chỉ còn lại nắm xương tàn




Chuyện của Chiết Nhan khiến ta chẳng còn lòng dạ nào ở trên Cửu Trùng Thiên nữa. Tuy ta có không ưa Dạ Hoa, nhưng được lên Thượng Thanh Cảnh trị thương thì vẫn nợ hắn ân tình, nếu như không từ mà biệt, thì không được hay lắm; còn nếu như chạy đến trước mặt hắn nói từ biệt thì ta thực mất mặt lắm thay. Thế nên để lại một phong thư, lời lẽ thành khẩn, bày tỏ sự biết ơn sâu sắc trước sự quan tâm chăm sóc của hắn đối với ta trong hai ngày gần đây, rồi cùng Chiết Nhan đi qua Nam Thiên Môn, vội vã xuống trần gian.
Cho dù lúc này Mặc Uyên chỉ là hồn phách ngủ say trên cơ thể của Tây Hải đại hoàng tử, thì ta vẫn muốn nhìn thấy người. Lòng mong muốn đến Tây Hải này giống như một con chim mẹ trong rừng, dậy thật sớm đi bắt sâu, khi bắt được một con sâu béo, liền hoan hỉ giang cánh bay về tổ, muốn mớm sâu cho con chim non đang nằm trong tổ.
Từ trên Cửu Trùng Thiên xuống đến Tây Hải, cưỡi mây cũng mất chừng hơn một canh giờ, cưỡi mây cùng Chiết Nhan cực kỳ buồn chán, lão luôn lảm nhảm không ngừng bên tai ta. May mà gần đây lão với tứ ca hòa thuận vui vẻ, nên lỗ tai ta mới khỏi bị tra tấn, khỏi phải nghe đi nghe lại những chuyện xấu hổ từ đời nảo đời nào về lão và tứ ca.
Lần này Chiết Nhan lại huyên thuyên về chuyện nhà của Tây Hải Thủy Quân, ta ngồi trên mây, giữ dáng vẻ nghiêm trang, chăm chú lắng nghe.
Trong các Thủy Quân của bốn phương đông tây nam bắc, thì Tây Hải Thủy Quân là người ta không có ấn tượng nhất. Ban đầu ta còn cho rằng mình ở Thanh Khâu đã quá lâu, không hay quan tâm đến đám thần tiên tiểu bối, nên ấn tượng về họ hết sức mờ nhạt trong tâm trí ta. Bây giờ nghe Chiết Nhan kể, mới hiểu rằng Tây Hải Thủy Quân hai đời nay sống hết sức kín đáo, khiến cho tộc Tây Hải gần như có cảm giác không tồn tại trong bốn bể tám cõi. Nhưng chính Tây Hải Thủy Quân – luôn giữ tác phong kín đáo nhiều năm qua gần đây lại làm một chuyện hết sức không kín đáo.
Chuyện này cũng do Tây Hải đại hoàng tử – Điệp Ung bị Mặc Uyên mượn thân xác điều dưỡng hồn phượng mà ra.
Nghe nói từ sáu trăm năm trước, Điệp Ung vốn không được khỏe mạnh, sức khỏe càng ngày càng tệ, đám thầy thuốc trong Thủy Tinh cung ở Tây Hải vì không tìm ra được nguồn bệnh, chữa chạy đã lâu mà không khỏi, nên đã mời Dược Quân ở trên trời xuống chẩn trị. Dược Quân mang theo hai tiểu đồng đến “vọng, văn, vấn, thiết”(34) một lượt, vuốt vuốt chòm râu rồi kê đơn thuốc. Nhưng hai đơn thuốc này chỉ có thể giúp Điệp Ung không ho ra máu nữa mà thôi. Trước lúc đi Dược Quân âm thầm kéo Tây Hải Thủy Quân đến một góc, nói bệnh của đại hoàng tử Điệp Ung không phải là bệnh lý trên người, mà đã không phải là bệnh trên người, thì Dược Quân cũng đành bó tay.
Đến Dược Quân cũng phải bó tay, Tây Hải Thủy Quân nhất thời đau xót đến đỏ hoe mắt, trầm tư nửa ngày, dứt khoát lập cáo thị cầu thầy thuốc, cáo thị ấy được dán khắp bốn bể tám cõi, viết hết sức rõ ràng, trong tam giới có ai có thể chữa khỏi bệnh của Tây Hải đại hoàng tử, đàn ông thì vời vào làm phi tử của Tây Hải đại hoàng tử, nữ thì được vời vào làm phi tử của Tây Hải nhị hoàng tử.
Haizz, đúng rồi, Tây Hải đại hoàng tử nghe đồn là một kẻ đoạn tụ.
Tây Hải Thủy Quân lo lắng đến mức đau đầu buốt óc, lời lẽ trên bản cáo thị cũng thành lạ lùng. Đương nhiên dưới gầm trời này cũng không ít kẻ đoạn tụ, ví dụ như cha của Ly Kính năm xưa là Kình Thương. Nhưng cũng có càng nhiều hơn không phải là đoạn tụ. Cáo thị lạ lùng kỳ quái của ông ta đã khiến những người không phải là đoạn tụ kia sợ chạy mất dép. Đợi mãi, đến lúc phát hiện chỗ sai trên cáo thị, thì bản cáo thị ấy đã như một bát nước lạnh bị rót vào dầu sôi, khiến cho bốn bể tám cõi đều nổ tung cả lên.
Từ đó, trước cổng cung của Tây Hải Thủy Quân, đám đoạn tụ nhiều như nước sông Hoàng Hà, cuồn cuộn sóng sau xô sóng trước, liên miên không dứt. Tiếc thay đám đoạn tụ này tuy “có tài đoạn tụ” nhưng lại chẳng có tài chữa bệnh.
Hồn phách của Mặc Uyên trốn rất kỹ, nếu không phải là người có tiên pháp đã đạt đến cảnh giới siêu việt, thì sẽ không thể nhìn ra trong thân thể của Điệp Ung có một hồn phách đang trú ngụ, ngày ngày chia tiên lực của y.
Vì thế, đại hoàng tử Điệp Ung bị giày vò đến mức chẳng còn ra dáng thần tiên. Phu nhân của Tây Hải Thủy Quân thấy y hình dung võ vàng thì đau lòng khôn xiết, ngày nào cũng khóc lóc trước mặt phu quân mình, khiến cho Tây Hải Thủy Quân cũng bội phần đau đớn.
Người có lòng hướng đạo, trời chẳng tuyệt đường sống bao giờ. Em ruột của Điệp Ung, nhị hoàng từ Tô Mạch Diệp và tứ ca của ta lại có mối quan hệ “bạn nhậu”. Nghe nói sau khi tứ ca tìm được Tất Phương về rừng đào mười dặm, bỗng một hôm cãi nhau với Chiết Nhan dăm câu, tức giận liền đến Thủy Tinh cung ở Tây Hải tìm Tô Mạch Diệp uống rượu.
Đúng lúc Thủy Tinh cung của Tây Hải gặp cơn sầu thảm, nhị hoàng tử Tô Mạch Diệp đó mới uống vài chén, ngà ngà say, mới lôi hết những chuyện buồn phiền trong gia đình ra kể cho tứ ca nghe. Tứ ca nghe xong những chuyện đau xót trong nhà Tô Mạch Diệp, lòng trắc ẩn dâng trào, liền tỏ ý sẽ về rừng đào mười dặm vời thượng thần Chiết Nhan đến giúp y. Xưa nay Chiết Nhan “định vị bản thân” rất rõ ràng, là một thượng thần thần bí “quy ẩn tam giới, chẳng hỏi hồng trần, hứng thú tao nhã, phẩm vị còn tao nhã hơn cả hứng thú”, mặc dù không muốn lội xuống nước, nhưng không thể không động lòng trước tấm thân tình của tứ ca, cuối cùng vẫn phải đến Tây Hải một chuyến. Chuyến này đã thu về được tin vui là Mặc Uyên sắp tỉnh, làm ta thỏa nguyện mong ước.
Chiết Nhan nheo mắt lại, nói: “Lúc ta và Chân Chân rời khỏi Tây Hải, nhận lời với đám tiểu thần tiên Tây Hải rằng, cứ cách một ngày lại phái tiên sứ đến Tây Hải, đích thân điều dưỡng cho Điệp Ung. Nếu muốn hồn phách của Mặc Uyên khôi phục suôn sẻ, thì cơ thể của Điệp Ung đương nhiên cũng cần được chăm sóc cẩn thận”.
Lão nói rất có lý, ta nhăn mày hỏi: “Từ lúc nào mà rừng đào của lão có tiên sứ thế?”.
Lão cười rất tự nhiên, đáp lời ta: “Trong tiệc đầy tháng ở chỗ Đông Hải Thủy Quân lần trước, nghe nói có một tiên nga mắt băng dải lụa trắng, đến đưa quà mừng là một bình rượu hoa đào cho Đông Hải Thủy Quân, tự xưng là phục vụ trong rừng đào của ta. Còn nghe nói tiên nga này cũng tự xưng là muội muội của thái tử Dạ Hoa trên Cửu Trùng Thiên, mấy lão thần tiên đã lên Cửu Trùng Thiên dò hỏi nửa tháng trời, nhưng không tìm ra được Dạ Hoa có muội muội nào, sau này lại chạy đến phủ của Đông Hải Thủy Quân chứng thực, hóa ra tiên nga đó không phải là tiên nga, mà là một tiên quân nam đóng giả nữ, vì có mối tình đoạn tụ với Dạ Hoa, nên đường đường là nam nhi mới phải giả là thục nữ, mạo danh là muội muội của hắn, để che mắt thiên hạ”.
Ta nhếch miệng: “Lão Đông Hải Thủy Quân này đúng là vui tính, ha ha, rất vui tính”.
Có thể tự tay điều dưỡng tiên thể của Tây Hải đại hoàng tử để báo đáp Mặc Uyên, ta vô cùng biết ơn Chiết Nhan. Nhưng lần này lão nhất định bắt ta phải giả nam, lại đẩy ta đến trước mặt một kẻ đoạn tụ, khiến ta hơi buồn bã. Ta cảm thấy hơi hối hận vì đã không nhờ tới tứ ca, bữa yến tiệc đầy tháng đó ở chỗ Đông Hải Thủy Quân, ta không nên lôi đại danh của Chiết Nhan ra.
Chiết Nhan liếc xéo ta một cái, ta ngẩng lên nhìn trời xanh, lắc mình hóa thành một thiếu niên, trên mặt vẫn băng một dải lụa trắng.
Đi khoảng một canh giờ, cuối cùng cũng đến Tây Hải.
Chiết Nhan ra vẻ một thượng thần uy nghiêm lẫm liệt dẫn ta tiến vào Tây Hải, đi loanh quanh dưới nước một lúc, thì nhìn thấy một tòa cung lớn, Tây Hải Thủy Quân đã dẫn đầu một đoàn tiểu tiên ăn mặc chỉnh tề, nghiêm trang xếp hàng đứng đón.
Vì ta được thượng thần Chiết Nhan dẫn tới Tây Hải, nên cho dù lão luôn miệng gọi ta là tiên sứ hầu việc cho lão, thì Tây Hải Thủy Quân cũng không dám khinh thường ta. Vẫn theo lễ, cung kính mời Chiết Nhan lên ngồi ngôi cao ở đại điện, cẩn thận rót trà đứng hầu, còn có rất nhiều tiên nga bưng hoa quả đến, để thượng thần Chiết Nhan dùng lúc nghỉ chân.
Chiết Nhan nghỉ chân, đương nhiên ta cũng làm theo.
Tám, chín nghìn năm trước, nhị ca Bạch Dịch của ta cũng từng ham mê văn chương, thường lấy về mấy tập thơ ở phàm giới, cùng ta ngâm ngợi. Trong đó có một bài do một đại tài tử được đám người trần gian công nhận là có tài mà không có đức viết nên, toàn bài thơ ta không còn nhớ nữa, nhưng vẫn nhớ hai câu trong đó, ấy là “Gần quê lòng càng khiếp sợ, không dám hỏi người đến là ai(35)”. Nhị ca giải thích cặn kẽ cho ta, nói là thi nhân đi xa quê hương, nhiều năm bặt vô âm tín, lần này lòng mong mỏi trở về, càng gần đến nhà thì lại càng không dám hỏi người bên cạnh về tin tức của người nhà. Hai câu thơ này đã bộc lộ hết nỗi lòng sợ hãi, lo âu của thi nhân, quả đáng gọi là đại tài. Lúc đó ta nghe những lời của nhị ca, trong lòng lại nghĩ khác, chỉ cảm thấy thi nhân này đã nhớ nhà da diết mà lại không không dám tiến bước, thì ông ta hơi biến thái, người bình thường chắc chắn sẽ không chần chừ như ông ta.
Đến ngày hôm nay, ta mới ngộ ra được ý tứ sâu xa của hai câu thơ kia, mới hiểu rằng thi nhân đó không phải là người biến thái, mà thực sự có tài năng. Vì lúc này, ngồi trên đại điện của Thủy Tinh cung tại Tây Hải, nỗi thấp thỏm trong lòng, cũng giống như nỗi lòng càng gần đến quê càng khiếp sợ, vừa muốn lập tức nhìn thấy hồn Mặc Uyên, lại sợ nhìn thấy ngay tức khắc.
Chiết Nhan cũng không nghỉ lâu, nhắm mắt uống hai ngụm trà, rồi nói là phải đi. Vì những lời đó là của thượng thần Chiết Nhan, nên Tây Hải Thủy Quân cho dù có lòng muốn giữ lão lại cũng ngại vẻ mặt nghiêm trang, lạnh lùng của lão, đành phải hô đám tiểu thần tiên ở Tây Hải tiền hô hậu ủng đưa tiễn lão.
Tiễn Chiết Nhan rồi, Tây Hải Thủy Quân vẫn giữ nét mặt buồn rầu, khiêm nhường, cẩn trọng nói mấy câu khách sáo, rồi đích thân dẫn ta đến thăm đại hoàng tử Điệp Ung. Ta hít một hơi thật sâu, toàn thân căng lên, chỉ sợ gặp Điệp Ung sẽ làm gì thất lễ.
Ta thầm nghĩ, Mặc Uyên đã đem hồn phách trú ngụ trên người đại hoàng tử Tây Hải, vậy thì khí trạch toàn thân của đại hoàng tử này hẳn sẽ gợi cho ta cảm giác thân thiết và quen thuộc, dáng vẻ của y có lẽ cũng phảng phất bóng dáng của Mặc Uyên. Nhưng đến khi cánh cửa điện Phù Anh của y được hai cung nga khẽ mở ra, ta bước theo sau Tây Hải Thủy Quân, nhìn thấy Điệp Ung đang đờ đẫn, đầu óc rối bù thì trái tim ta dần dần chùng xuống.
Chàng trai bệnh tật nằm trên giường kia, mày mắt tuy thanh tú nhưng khí lực quá yếu ớt, chẳng sao sánh được với Mặc Uyên. Còn khí trạch bên ngoài tấm thân, cũng lả lướt, chẳng có chút gì là cao lớn sâu xa.
Hễ nhìn thấy là lại cho người ta tin rằng trên người y mà có hồn phách của một chiến thần từng hô phong hoán vũ khắp bốn bể tám cõi trú ngụ, chẳng khác nào bắt người ta phải tin chim trống có thể đẻ ra trứng rồi ấp như chim mái.
Có lẽ hồn phách của Mặc Uyên ngủ đã quá say, chẳng để cho Điệp Ung hấp thu được chút tiên khí mạnh mẽ mà trầm ổn của người.
Tây Hải Thủy Quân đứng bên cạnh nói những lời đầy tâm sự rất lâu, đại ý là cho con trai của ông ta hay, vị tiên quân đứng trước mặt y chính là đệ tử của thượng thần Chiết Nhan. Từ rày về sau, căn bệnh mấy trăm năm không chữa khỏi của y, đều phải nhờ vào vị tiên quân này chữa trị, mong y hãy biết ơn, cẩn thận phối hợp với vị tiên quân này.
Haizz, “vị tiên quân này” chính là chỉ thượng thần bất tài ta đây.
Tây Hải Thủy Quân vẫn huyên thuyên, ta và Điệp Ung im lặng nhìn nhau.
Một nô tỳ của Điệp Ung mang một chiếc đôn thêu đến đặt trước giường, để ta ngồi bắt mạch cho Điệp Ung. Ta run run đưa tay cầm cổ tay y, mạch đập không hư không thực, không chậm không nhanh, không chìm không nổi, đúng như Chiết Nhan nói, mạch tượng bất thường.
Tây Hải Thủy Quân rất lo lắng, cuống quýt tiến tới hỏi: “Bệnh của tiểu nhi…”.
Ta gượng cười với ông ta: “Thủy Quân có thể cùng những người khác ra ngoài điện được không?”.
Đuổi đám người trong điện đi để ta tiện dùng truy hồn thuật tìm hồn phách của Mặc Uyên. Truy hồn thuật là một thuật pháp mạnh mẽ, nhưng cũng tùy đối tượng, nếu không phải đạt đến phẩm trật thượng thần, cho dù tiên pháp của anh có cao siêu đến đâu, thì cũng không thể thi triển nó. Hơn nữa, khi thi triển lại phải giữ cho khí trạch nội trong trăm thước vuông thanh tịnh, bình ổn, không được để người bên cạnh quấy rầy.
Khi ta bước vào điện, thì Điệp Ung ngây dại đó mới khẽ liếc ta một cái, ta cười với y rất hiền hòa, rồi một đao đâm tới. Điệp Ung mở to mắt, chớp hai cái, đổ nghiêng ngả ra giường.
Đã nhiều năm không thi triển truy hồn thuật, may mà chú ngữ phối hợp ta vẫn còn nhớ. Hai tay bắt ấn già, trong điện bỗng chói lòa một luồng sáng màu trắng, luồng sáng từ từ quấn thành một dải màu bạc, bay thẳng đến vầng trán cao rộng của Điệp Ung, rồi biến mất không để lại dấu vết. Ta thở phào một hơi, cẩn thận đẩy thần thức từ trong cơ thể ra, thuận theo hướng dải sáng bạc vừa đi, chầm chậm tiến vào nguyên thần của Điệp Ung. Đây luôn là một phép thuật đòi hỏi sự tỉ mỉ, chỉ sểnh một chút là sẽ trộn thần thức của người làm phép và người bị làm phép làm một, cho nên không thể lơ là.
Trong nguyên thần của Điệp Ung tràn đầy ánh sáng bạc hư ảo, nhưng sáng rõ, nhưng vì quá sáng rõ, nên cũng chẳng khác gì với đen tối. Ta quanh quẩn trong nguyên thần của y hồi lâu, cũng chẳng tìm ra được nơi hồn phách của Mặc Uyên ngủ say, tìm qua tìm lại vô cùng vất vả. Khi đang định rút ra để dùng truy hồn thuật một lần nữa thì bên tai vẳng lại tiếng nhạc vô cùng quen thuộc, dìu dặt du dương, khoáng đạt an nhàn, ta vẫn còn nhớ, giai điệu chính là khúc Đại Thánh Phật Âm mà Mặc Uyên dùng đàn Thái Cổ Di Âm tấu lên, khi pháp hội của Đông Thần Huyền Minh kết thúc năm xưa. Tim ta đập nhói lên, vội vàng tập trung, loạng choạng đi theo tiếng nhạc.
Nhưng khi chạm phải, thì Đại Thánh Phật Âm ngưng bặt.
Hai tay ta run rẩy sờ thứ ta vừa chạm phải, cảm giác mềm mại, ấm áp, giống như có một dải tiên khí chầm chậm bò quanh ngón tay, quấn quýt giữa các ngón. Thần thức không rơi lệ, nhưng vẫn cảm giác được khóe mắt cay xót. Trong mắt, trong đầu ta đều trống rỗng, lúc này, thứ mà ta chạm tới, chính là, chính là, hồn của Mặc Uyên.
Nhưng hồn phách của Mặc Uyên lại tang thương đến thế. Sư phụ Mặc Uyên của ta, chiến thần Mặc Uyên duy nhất trong khắp bốn bể tám cõi này, chiến hồn mạnh mẽ của người, giờ đây lại yếu ớt đến mức phải nhờ vào một dải tiên khí bảo vệ.
Chẳng trách Điệp Ung và Mặc Uyên chẳng hề giống nhau.
Nhưng vẫn con may, vẫn còn quay về, Chiết Nhan không lừa ta, người còn thân thiết hơn cha ta – Mặc Uyên, đã quay về.
Ở quá lâu trong nguyên thần của Điệp Ung, ban nãy thần thức lại bị một phen chấn động, nếu cứ dùng dằng mãi e rằng sẽ nguy hiểm. Cái hư không màu trắng bạc này tuy không thể nhìn rõ là vật gì, mang tâm trạng vừa lo vừa mừng, ta quỳ xuống vái lạy hồn Mặc Uyên hai cái, rồi cẩn thận ra bên ngoài.
Giải xong truy hồn thuật, Điệp Ung cũng từ từ tỉnh lại.
Y mở mắt nhìn ta, ngây ra hỏi: “Sao ngươi lại khóc? Không chữa được bệnh của ta phải không? Không chữa được bệnh cho ta cũng không cần đau lòng đến mức phát khóc như thế. Nếu cần phải khóc, thì là ta nên khóc mới phải. Người đừng khóc, ta như vậy cũng không sao, lâu ngày nên quen rồi”.
Ta sờ lên dải lụa trắng trên mặt, đúng là hơi ươn ướt, có lẽ ban nãy thần thức quá xúc động, làm liên lụy đến cả đôi mắt trên người, bèn dùng phép hong khô dải lụa trắng, ngại ngùng cười nói: “Ta mừng quá nên mới khóc”.
Y nhíu mày hỏi: “Ngươi ấy, ta còn tưởng ngươi là một kẻ mềm lòng, thấy bệnh của ta thì đồng cảm, khóc thương thay ta. Nào ngờ ngươi lại mừng khi ta chịu khổ”.
Ta dịu dàng vỗ lên vai hắn, khiêm nhường nói: “Đâu có, đâu có, đâu có vui lắm đâu”.
Chiết Nhan nói không sai, dựa vào tấm thân yếu đuối của Điệp Ung, hồn của Mặc Uyên ít nhất cũng mất bảy, tám nghìn năm điều dưỡng mới có thể khiến chính thân tỉnh lại. Nhưng nếu mượn được đèn Kết Phách của Thiên tộc để dùng, thì những phần hồn tán loạn sẽ được ghép lại hoàn chỉnh, rồi đem tu vi mười bốn vạn năm của ta độ cho người một nửa, thì việc người tỉnh lại chỉ là một sớm một chiều mà thôi.
Nhưng tuy ta sống đã ngần này tuổi mà vẫn chưa từng thấy cây đèn Kết Phách của Thiên tộc, mà chỉ đọc được trong sách vở. Những ghi chép này đều nói đèn Kết Phách do Phụ Thần của thời đại hồng hoang chế tạo, có thể kết hồn của thần tiên, tạo hồn cho người phàm.
Ví dụ như một vị tiên bị đánh tan hồn phách, nếu bị đánh tan tành, thì chỉ cần đặt đèn Kết Phách trên đầu giường người đó ba ngày, sẽ kết nối hồn phách của người đó như cũ. Còn nếu là người phàm thì càng siêu phàm hơn, cho dù người đó đã tan thành tro bụi, chỉ cần đem một thứ đồ có mang hơi hướm của người phàm trần này đến đốt trên đèn một lần, sẽ khiến đèn nhận ra chuẩn xác được hơi thở của người phàm đó, nó sẽ từ từ hút những khí trạch còn lưu lại của người đó trong khoảng ngàn dặm vuông. Đợi đến khi hút sạch khí trạch của người phàm đó lưu lại trong nhân gian, nó sẽ mô phỏng lại một hồn phách giống hệt như hồn phách đã bị đánh tan thành tro bụi kia.
Haizz, đúng là một thánh vật hạng nhất.
Ta làm phép cho Điệp Ung ngủ, rồi đi qua cửa điện Phù Anh, đám người vừa bị ta đuổi ra ngoài đang đứng thấp tha thấp thỏm một bên, người duy nhất không thấy đâu là Tây Hải Thủy Quân. Cung nga dẫn đầu rất tinh ý, ta chưa mở miệng hỏi, nàng ta đã quay sang chào: “Vừa có khách quý tới, Thủy Quân đã ra đại điện đón khách rồi. Nếu là những việc vặt vãnh, tiên quân chỉ cần sai bảo chúng nô tỳ là được ạ”.
Khụ khụ, hóa ra Tây Hải lại có khách quý nữa tới. Hôm nay Tây Hải Thủy Quân thật là vinh hạnh, hai thượng thần uy danh hiển hách là bản thượng thần và thượng thần Chiết Nhan giá lâm địa giới của ông ta, đã đủ khiến cho Thủy Tinh cung của ông ta sáng láng rạng rỡ, đã may mắn một lần giờ lại may mắn thêm, lại đón thêm một khách quý nữa. Haizz, vận may lớn thế này, chắc bảy, tám nghìn năm nay ông ta mới có.
Ta cũng chẳng có gì phải dặn dò họ, chỉ cần lập tức lên Cửu Trùng Thiên một chuyến, tìm Thiên Quân hỏi mượn đèn Kết Phách. Nhưng hiện giờ vai ta đang sắm lại chẳng có vai vế gì, nên không thể thoải mái đi đi về về, thế nên trước khi đi, còn phải đích thân đi nói một tiếng với Tây Hải Thủy Quân. Ta chọn đại hai cung nga, nhờ họ dẫn đến đại điện đón khách của Tây Hải Thủy Quân, đám còn lại ở lại hầu hạ Điệp Ung.
Vị khách quý của Tây Hải Thủy Quân không hề tầm thường.
Trước cửa đại điện là hai hàng dài tiểu thần tiên, dáng vẻ cung kính chắp tay đứng chờ. Nhìn lướt qua mặt họ, ta nhận ra đó chính là những người khi Tây Hải Thủy Quân đón tiếp Chiết Nhan.
Có thể thấy người đến tuy phẩm vị không bằng Chiết Nhan, nhưng chức vị thì có thể còn cao hơn hẳn. Ta vội thông báo chuyện cần gặp Tây Hải Thủy Quân đang đứng cách hai dãy tiểu thần tiên của Tây Hải, ngay sau đó, có hai cung nga ăn mặc hoa lệ bước ra, dẫn ta vào trong điện.
Bản thượng thần đoán chẳng nhầm, phẩm vị của vị khách này không cao bằng Chiết Nhan, nhưng chức vị thì đúng là cao hơn Chiết Nhan.
Vị khách quý này chính là người đã tức giận với ta, thái tử của Thiên Quân trên Cửu Trùng Thiên – Dạ Hoa.
Lúc ta bước vào, hắn đang dùng tay chống má, ngồi tựa vào chiếc ghế khắc hoa bằng gỗ tử đàn, nét mặt uể oải, nhăn mày nhăn mặt, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy. Quần áo mặc trên người vẫn là đồ mặc chiều hôm qua, tóc chưa chải lại, vẫn giống như lúc ở Thanh Khâu, chỉ dùng một dải lụa đen buộc túm lại ở phần đuôi tóc.
Ta nhìn xung quanh chẳng thấy Tây Hải Thủy Quân ở trong đại điện, lại nghĩ đến câu mà ta đã nói với hắn trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, khi hắn bế cục bột nhỏ đi, máu nóng xộc lên, hừ mũi một tiếng, rồi quay người phảy tay áo toan bỏ đi.
Ta đứng cách hắn khoảng sáu, bảy bước chân, lúc phảy tay áo bỗng thấy có cơn gió nhẹ xao động phía sau, khi phản ứng kịp thì đã bị hắn kéo lại.
Vì ta định quay gót đi thực chứ không phải làm bộ làm tịch, nếu chỉ là một cái kéo nhẹ nhàng thì ta đã không hề suy chuyển.
Hẳn hắn cũng biết nên cái kéo này rất mạnh. Hôm nay ta đã suy xét sự tình rất chu toàn, nhưng chẳng ngờ hắn lại to gan như vậy, không coi phong độ thượng thần phải khổ luyện suốt mười bốn vạn năm ra gì nên dám chặn ta lại. Thế là, chỉ vô ý một chút đã bị hắn kéo cho loạng choạng, rồi lao thẳng vào lòng hắn.
Tiên khí mạnh mẽ của ta đẩy cho hắn lui ba, bốn bước, đập thẳng vào cột trụ bằng thủy tinh lớn chính giữa điện, nhưng hắn vẫn cắn chặt môi, nhất quyết không chịu buông tay, sắc đen thẫm ánh lên trong đôi mắt.
Hắn xiết rất mạnh tay, ta giằng co hồi lâu mà không giằng ra được, đang định dùng phép thuật thì hắn quay người lại, khóa chặt hai tay ta, áp sát người lại, ép chặt ta vào tường. Tư thế này thực sự rất mờ ám, lúc ở trần gian ta từng xem những bức xuân cung đồ vẽ màu, trong đó có một bức giống thế này.
Thần trí còn ở đẩu đâu thì bỗng cảm thấy ở cổ hơi đau. Hắn, hắn, hắn, hắn cắn ta! Răng, răng hắn sắc quá đi mất!
Tất cả đều thiên thời địa lợi nhân hòa, giúp hắn ép mạnh ta, ta không thể phản kháng lại. Hắn thở hổn hển, môi lưỡi chậm rãi mơn trớn cổ ta, đầu óc ta tỉnh táo mà cơ thể lại không ngừng run rẩy. Có một thứ cảm xúc không tên đang trỗi dậy, hai bàn tay bắt đầu thả lỏng, nhưng thả lỏng không phải để đẩy hắn ra, mà dường như muốn thoát khỏi sự điều khiển của ta, để ôm hắn thật chặt.
Trong đầu ta bỗng vẳng lên một giọng nói thật xa xăm, hư hư ảo ảo, hắn nói: “Nếu ta chẳng có gì, nàng có bằng lòng theo ta không?”, lập tức có một người con gái khẽ cười đáp: “Ngoài thanh kiếm trong góc tường kia, chàng chẳng có gì hết, mà thanh kiếm đó, ngoài chẻ củi ra thì chẳng có tác dụng gì, thiếp cũng đâu có chê chàng”.
Từng câu từng chữ ngốc nghếch đó khiến đầu óc ta trở nên mơ hồ, hỗn độn, có cảm giác từ đầu đến chân đều không còn là của mình nữa, tận đáy lòng trào dâng một khát vọng tựa như đã đợi chờ cả triệu năm, khát vọng ấy khóa chặt ta lại, khiến ta không nhúc nhích được. Một tay hắn mở vạt áo trước của ta ra, làn môi nóng bỏng trượt từ xương quai xanh xuống, cho đến chỗ trái tim, vì đã lấy máu nuôi Mặc Uyên bảy vạn năm nên ở tim ta luôn có một vết sẹo dài chừng mười phân, lõm xuống rất sâu. Cánh tay trái hắn kìm chặt hai tay ta hơi gồng lên rồi càng xiết chặt hơn, làn môi hết lần này đến lần khác chà lên vết sẹo ở tim ta. Ta ngẩng đầu khẽ rên một tiếng, chỗ bị hắn hôn bỗng đau nhói, còn đau hơn cả bị dao đâm.
Cơn đau ấy đã kéo ta về với thực tại, toàn thân mất hết sức lực, cả người men theo bức tường từ từ trượt xuống.
Cuối cùng hắn cũng buông tay. Hai cánh tay ta đã được tự do, chẳng nghĩ ngợi gì, ta vung tay tát hắn một cái. Nhưng buồn thay cái tát đó mới đi nửa chừng đã bị hắn giữ lại, rồi kéo ta vào lòng hắn. Cánh tay phải của hắn lại thọc sâu vào lớp áo còn chưa kịp khép lại của ta, áp vào chỗ tim, mặt vẫn trắng bệch như tờ giấy, hai mắt lại sáng rỡ. Hắn nói: “Bạch Thiển, chỗ này của nàng, có dành cho ta vị trí nào không?”.
Hắn đã hỏi ta câu này hai lần, nhưng ta thực sự không biết phải trả lời hắn ra sao. Trong tim ta đương nhiên có hắn, nhưng ta không biết vị trí mà hắn nói và vị trí mà ta nói có giống nhau hay không. Hai ngày gần đây, những lúc chỉ có một mình, ta cũng thầm ngẫm nghĩ, trong lòng ta hắn chiếm vị trí gì? Nghĩ đi nghĩ lại, đến đau cả đầu.
Bàn tay nóng rẫy của hắn dính lấy ngực ta rồi dần dần lạnh đi, ánh sáng trong mắt cũng dần dần u ám lại, chỉ còn lại một màu đen trầm lắng, hồi lâu sau, hắn mới bỏ tay ra, chậm rãi nói: “Nàng đợi đã bao năm như vậy là đợi người đó quay về, giờ người đó đã quay về, trái tim của nàng đương nhiên sẽ không thể dành chỗ cho người khác, là ta vọng tưởng mà thôi”.
Ta ngẩng phắt đầu lên nhìn hắn: “Sao ngươi biết Mặc Uyên trở về?”. Tuy rằng không hiểu hết ý tứ trong lời nói của hắn, nhưng Mặc Uyên là Mặc Uyên, hắn là hắn, Mặc Uyên quay về hay không quay về đâu có quan hệ với hắn chiếm vị trí gì trong lòng ta. Nhưng việc Mặc Uyên quay về, theo lý mà nói chỉ có ba người Chiết Nhan, tứ ca và ta biết thôi, cùng lắm là có thêm Mê Cốc và Tất Phương, vậy hắn nghe được từ đâu?
Hắn quay đầu nhìn ra ngoài điện, hững hờ nói: “Cái đêm trước khi trở về Thiên Cung, thượng thần Chiết Nhan đã nói với ta. Ban nãy ta đến Thanh Khâu tìm nàng, giữa đường gặp ông ấy, hàn huyên với ông ấy vài câu. Ta không chỉ biết người ấy đã quay về, mà còn biết để người ấy sớm tỉnh lại, nàng nhất định sẽ đến Thiên Cung mượn đèn Kết Phách”. Hắn ngừng lại giây lát, rồi nói tiếp: “Mượn được đèn Kết Phách rồi, nàng định làm gì tiếp theo?”.
Xem ra những gì nên nói hay không nên nói thì Chiết Nhan cũng nói cả rồi. Ta sờ trán, thở dài: “Đến Doanh Châu lấy cỏ Thần Chi, độ cho sư phụ tu vi bảy vạn năm, để người mau tỉnh lại”.
Hắn quay ngoắt đầu lại, trên khuôn mặt trắng bệch, đôi mắt đen lại càng thăm thẳm hơn, nhìn ta rất lâu, rồi gằn từng tiếng: “Nàng điên rồi”.
Vì tiên trạch của mỗi thần tiên là không giống nhau, khi thần tiên độ tu vi cho nhau, nếu độ quá nhiều thì rất dễ làm rối loạn khí trạch của bản thân, rối loạn tu vi, cuối cùng sẽ rơi vào ma đạo. Còn cỏ Thần Chi lại chính là loại cỏ thiêng dùng để làm trong sạch tiên trạch, lần này ta phải độ cho Mặc Uyên tu vi bảy vạn năm, để tránh chữa lợn lành thành lợn què, nên mới cần tới cỏ Thần Chi để dự phòng bảo vệ, dùng tu vi bảy vạn năm của ta và cỏ Thần Chi luyện thành một viên tiên đan, đưa cho Điệp Ung uống, chỉ không đầy ba tháng, Mặc Uyên sẽ tỉnh lại.
Vì cỏ Thần Chi có công dụng thần kỳ như vậy, năm xưa Phụ Thần lo rằng một số tiểu thần tiên không tu hành theo con đường chính đạo, nên đã hủy hết cỏ Thần Chi trong bốn bể tám cõi, chỉ giữ lại một ít ở Doanh Châu của Đông Hải. Nhưng chỗ cỏ này cũng được bốn con ác thú là Hỗn Độn, Đào Ngột, Cùng Kỳ và Thao Thiết canh giữ. Sau khi Phụ Thần ra đi, bốn con ác thú đã được nhận một nửa thần lực của Phụ Thần, càng trở nên hung dữ hơn. Còn nhớ năm xưa, khi mẹ muốn độ tu vi cho ta ở trong động Viêm Hoa, cha đã vì ta đến Doanh Châu lấy một ít cỏ Thần Chi, khi về mình đầy thương tích. Khắp cõi trời đất chẳng có mấy thần tiên có tu vi sánh với cha ta, vậy mà ông vẫn bị ác thú canh cỏ Thần Chi đánh cho tơi tả, lần này ta đi, đúng như hắn nói, chẳng khác gì một kẻ điên, chắc chắn sẽ bị trọng thương.
Vốn dĩ Dạ Hoa đứng cách ta chỉ ba bước, sau khi buông ta ra, ta vẫn đứng tựa vào cây cột đá. Hắn chỉ giơ tay lên là đã đẩy ta vào giữa cây cột, hai mắt tối sầm, nghiến răng nói: “Vì người ấy, nàng không cần cả tính mạng sao?”. Rõ ràng ta mới là người bị đẩy vào vậy mà vẻ mặt của hắn lại như thể hai chúng ta đã đổi vai.
Câu nói ấy của hắn thật lạ lùng, nếu ta thực sự không đánh nổi bốn con ác thú, thì chỉ cần quay đầu bỏ chạy, đâu cần phải đánh đổi bằng cả tính mạng? Nếu không lấy được cỏ Thần Chi, thì ta lại đợi sư phụ thêm bảy, tám nghìn năm nữa mà thôi.
Nhưng nhìn gương mặt nhợt nhạt lại vừa nghiêm túc của hắn, ta bỗng nhớ ra một chuyện vô cùng cấp bách. Nếu theo tốc độ tu hành bình thường của ta, ta vừa bị trọng thương lại vừa thiếu tu vi bảy vạn năm, ít nhất cũng phải mất ba, bốn vạn năm nữa mới có thể tỉnh lại. Trong ba, bốn vạn năm ấy, đương nhiên sẽ không thể có một Thiên hậu kế vị chịu gánh tám mươi mốt ngọn lửa, chín tia sấm sét, xưa nay chưa từng nghe một Thiên đế nào khi kế vị mà chưa lập Thiên hậu, nếu tiếp tục để hôn ước này bó buộc chúng ta với nhau cũng không được thỏa đáng lắm.
Ta hắng giọng một tiếng, ngẩng đầu lên nhìn hắn nói: “Hôn ước của chúng tay hay là hủy đi!”.
Hắn choáng váng, nói: “Nàng nói cái gì?”.
Ta gỡ tay hắn ra, lần đến bên bàn, rót một tách trà, nghe thấy tiếng mình vang lên khô khốc: “Chuyện này chẳng can hệ gì với ngươi, chẳng qua là do năm xưa Tang Tịch đã sai lầm, khiến Thanh Khâu nhà ta mất thể diện, Thiên Quân vì muốn gắn kết hai nhà, nên mới định ra hôn ước chẳng ra sao này. Lần này là do Thanh Khâu nhà ta từ hôn trước, chúng ta đường ai nấy đi, những chuyện trước kia, sau này không ai nợ ai”.
Mãi lâu sau hắn vẫn không có động tĩnh gì, quay lưng lại phía ta rất lâu mới lên tiếng: “Đêm nay, nàng đến phòng ta một lần đi, đèn Kết Phách không ở trên trời, mà ở chỗ ta”. Dứt lời, bèn quay người lại nhìn ta, rồi đi thẳng ra ngoài điện, nhưng suýt chút nữa thì va vào một cây cột thủy tinh khác.
Ta đáp lại khô khốc: “Cẩn thận”.
Hắn khựng lại, đưa tay sờ lên trán, lạnh lùng nói: “Chẳng qua ta luôn vọng tưởng mà thôi, nhưng ta nợ nàng bao nhiêu, nàng nợ ta bao nhiêu, e rằng số phận đã chẳng thể làm rõ được”.
Chiếc bóng cao dài của hắn, càng nhìn càng thấy lẻ loi.
Chú thích: 
34. Vọng, văn, vấn, thiết: Bốn phép khám bệnh cơ bản của Đông y, gồm vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (sờ, chạm) (ND). 
35. Nguyên văn: Cận hương tình càng khiếp, bất cảm vấn lai nhân (ND). 

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.