Mê Tông Chi Quốc

Chương 178: biến thành ma






Tư Mã Khôi cũng cảm nhận thấy những điềm báo bất thường, nhưng không biết cụ thể là chỗ nào bất thường, mãi khi phát hiện ra thì đã muộn. Tuy không nhìn thấy khuôn mặt mình lúc đó trông thế nào, nhưng Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy gương mặt của tất cả những thành viên còn lại dưới ánh đuốc bập bùng, anh giật thót một cái khi thấy người nào người nấy hốc mắt lõm sâu vào trong, gò má xanh đen, âm u chẳng khác cương thi là mấy, anh đoán chắc mặt mình cũng giống vậy.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, một cảm giác rùng rợn chạy sượt qua tim, tóc gáy dựng đứng, lúc trước cả hội chỉ mải quan sát tình hình xung quanh mà không để ý những người quanh mình bất giác biến thành hình hài này từ lúc nào. Dẫu ai cũng biết rõ sống trong thế giới tăm tối dưới lòng đất một thời gian dài, sắc mặt sẽ dần dần trở nên nhợt nhạt, nhưng chắc chắn không thể biến thành bộ dạng như thế này được.

Điều duy nhất có thể khẳng định là sự thay đổi này bắt đầu xuất hiện sau khi cả hội thâm nhập vào Tử thành, nếu không nhanh chóng thoát khỏi nơi đây, chỉ e tất cả sớm muộn sẽ trở thành những bộ xương khô di động dưới lòng đất.

Mọi người không ai hẹn ai mà lập tức cùng thả dây thừng xuống khe nứt trên mặt đất để tiếp tục trèo xuống sâu hơn, nhưng mới chỉ tụt xuống hơn hai mươi mét, họ đã chạm đáy. Chẳng ai ngờ cái hố lại nông thế, dưới chân là những tảng đá khổng lồ bằng phẳng, trơn nhẵn, tứ phía khoáng đạt tối đen như mực, cứ cách mấy bước chân lại sừng sững một trụ đá hình người to bằng một vòng tay.

Hội Tư Mã Khôi chỉ biết vị trí đại khái, vừa đi vừa thắc thỏm, không ngờ phần rìa vách đều không có cửa ra, nhìn địa hình thì chỗ cả hội đang đứng có vẻ là một tòa đại điện, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và đuốc bị giảm xuống đáng kể. Trong lúc cuống cuồng chỉ mong mau chóng tìm thấy đường thoát, cả hội lại càng chẳng tìm thấy lối ra, ai nấy nóng lòng như kiến bò chảo lửa, môi khô nứt nẻ, miệng thở hồng hộc đầy khó nhọc, đống ba lô vũ khí trên lưng bỗng trở nên nặng nề lạ lùng, cơ thể họ dần lạnh ngắt, tê dại, chỉ muốn lăn ra nằm bất động trên mặt đất.


Muốn là muốn vậy, nhưng lòng ai cũng rõ – chỉ cần dừng lại ở đây thì vĩnh viễn đừng nghĩ đến việc có thể đứng dậy đi tiếp, ngặt nỗi đi mãi mà vẫn không tìm thấy đường hầm rời khỏi Tử thành, cả hội nhẩm tính dẫu có quay trở lại đường cũ thì cũng chẳng kịp, không khéo chưa được nửa đường đã gục ngã. Không còn cách nào khác, mọi người đành liên tục uống nước để bổ sung thể lực, gắng gượng lần mò từng bước, chẳng bao lâu sau, họ đã đến tận cùng của đáy hố.

Cao Tư Dương đột nhiên phát hiện cây đuốc trên tay bỗng biến thành đốm lửa ma trơi mờ ảo, chiếu vào người không những không nóng mà còn tỏa ra ma khí âm u đến rợn người. Cô giật mình, vội quẳng ngọn đuốc ra xa.

Không để ngọn đuốc rơi xuống đất, Tư Mã Khôi vội chìa tay đỡ lấy, anh ngạc nhiên hỏi: “Sao lửa đuốc lại biến thành thế này nhỉ?”

Nhị Học Sinh kinh hãi nói: “Hình như nơi này có một sức mạnh đáng sợ không thể lý giải được, nó có thể lẳng lặng nuốt chửng tất cả mọi sinh mệnh…”

Hải ngọng mỉa mai: “Anh thấy chú đúng là cái vòi ấm nạm viền vàng, đáng tiền là đáng ở cái miệng vòi. Cái gì mà sức mạnh đáng sợ? Đây chẳng qua chỉ là lửa ma trơi thường thấy ở những ngôi mộ cũ thôi mà”.

Thắng Hương Lân lại cho rằng lời Nhị Học Sinh nói có phần có lý, trong Tử thành không hề có điều kiện để hình thành hóa thạch, vậy mà những bộ xương khô của người Bái Xà ở dưới lòng đất lại đều biến thành hóa thạch, điều đó chứng tỏ ở đây nhất định tồn tại một vật có thể hút cạn sinh khí của người sống và biến thi hài thành hóa thạch chỉ trong một thời gian ngắn, thậm chí ngay cả nhiệt lượng của lửa đuốc cũng bị nó hút hết ánh sáng.

Tư Mã Khôi thấy cũng phải, nhìn tình hình quầng lửa ma trơi trước mặt, thì vật nuốt chửng hơi khí của người sống chắc chắn đã đến khá gần nơi này. Phải nhanh chóng tiêu diệt nó thì cả hội mới mong có tia hi vọng sống sót.

Mọi người gấp gáp như thể đang chạy đua với thần chết, không ai dám nấn ná nửa giây. Họ lập tức khua đuốc lục soát tìm kiếm khắp nơi trong đại điện tối om, không bỏ sót một góc nào. Trong một góc động hõm sâu vào trong có vài cỗ xác khô cổ đại đầu đội trang sức vàng, cỗ nào cũng cúi gục xuống, da thịt khô quắt như vỏ cây, không thể nhìn rõ diện mạo được nữa. Từ cái miệng ngoác rộng của họ liên tục chảy ra thứ nước vàng, trong lòng các xác chết đều ôm một cây nấm lớn, thân nấm đỏ au như máu, tán xòe như cái ô, dịch nhãi chảy ra từ miệng cái xác đều rớt xuống phần đỉnh cây nấm, gốc nấm thì dính chặt thành một thể với cái xác.

Hội Tư Mã Khôi càng tiến lại gần càng thấy ngạt thở, hai mắt anh díu lại, mọi thứ trước mắt trở nên mơ hồ. Anh biết loại nấm này chính là “nấm thi khẩu”. Lớp sương khí mờ mịt tỏa ra xung quanh thực ra là những con trùng nhỏ miệng đen đầu đỏ, chỉ khi lấy nước tạt vào thì mắt thường mới trông thấy chúng, nom chúng chẳng khác nào sương khí tỏa ra từ xác chết. Lũ côn trùng này tụ tập ở đây, rồi tỏa ra bốn hướng, hút cạn sinh khí tồn tại trong tòa Tử thành này. Sở dĩ những cây nấm mọc ra từ miệng xác khô của người Bái Xà là do cơ thể người chết đã hít phải lũ côn trùng. Trong khi đó, hội Tư Mã Khôi lại xâm nhập nơi này trong trạng thái không hề được phòng bị chút nào.

Tư Mã Khôi nhớ lại trong điển tịch tướng vật có đoạn chép rằng: thời Tùy Đường có tay thợ săn vào núi săn bắn, anh ta đuổi theo linh dương và rơi xuống một huyệt động. Trong huyệt động, anh ta nhìn thấy một khóm linh chi tươi, biết đây là dị vật, anh ta liền hái xuống và định nuốt ăn, không ngờ một con ma núi bỗng đâu chạy vọt tới cướp lấy khóm nấm, tay thợ săn sống chết tranh cướp lại, cuối cùng cũng xua được con ma núi đi. Ma núi mà người xưa vẫn gọi có khả năng chỉ là một loài khỉ vượn hoặc sơn tiêu thông minh nào đó, nó định chờ cây linh chi lớn lên mới ăn, ai ngờ lại bị gã thợ săn nẫng tay trên.


Đuổi được con ma núi, gã thợ săn không đợi thêm được nữa, vội nuốt hết cây nấm linh chi vào miệng, vừa nuốt trôi khỏi miệng, cơ thể anh ta bỗng nhiên không ngừng to ra, chỉ mỗi cái đầu còn chui lọt ra khỏi động, phần thân từ cổ trở xuống không thể nhúc nhích được nữa, kết quả anh ta bị nhốt trong huyệt động cho đến chết.

Chuyện này tuy rất hoang đường nhưng lại chứng minh – trên đời tồn tại một loại thực vật có công dụng kỳ lạ như cây nấm linh chi, có lẽ những cái xác cổ của người Bái Xà đầu đội trang sức vàng này lúc còn sống đã từng ăn một loại nấm hiếm gặp nào đó mọc dưới vực sâu, nên sau khi họ chết đi, nước rỉ ra từ miệng những cái xác khiến những khóm nấm độc vốn đã chết khô nay bỗng hồi sinh và bất tử suốt ngàn năm.

Tư Mà Khôi càng nghĩ lại càng sợ, may mà phát hiện kịp thời, nếu không chắc hội anh đã trở thành những bộ xương khô chôn thây trong tòa thành cổ. Anh nhanh trí ra hiệu cho mọi người mau bịt miệng và mũi lại, không được tới gần thêm, rồi bảo Hải ngọng lấy súng săn bắn nát khóm “nấm thi khẩu” khổng lồ, phần tán nấm giống cái ô của nó lập tức hóa thành nước đen, mùi hôi thối tỏa ra nồng nặc, không thể ngửi nổi.

Sau đó, mọi người thấy, tuy làn sương mỏng giăng bốn bề vẫn chưa tan hẳn, nhưng ánh đuốc đã tỏa ra quang nhiệt như lúc đầu, cảm giác tê bì trên cơ thể cũng dần dần mất đi, đến lúc này cả hội mới hơi yên lòng một chút, có điều khí huyết bị tổn thương nặng nề, không thể phục hồi ngay được trong chốc lát. Vừa mới ngồi thở hổn hển trên mặt đất chưa được bao lâu, mọi người bỗng thấy mấy cỗ cổ thi bỗng lún dần xuống, thì ra phía dưới khóm nấm khô là một cửa động, trước đây nó mọc che cả lối vào khiến không ai nhìn thấy.

Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào trong, bên trong dường như không có sương khí tử thi, có vẻ hơi khí này chỉ bốc lên trên, những cỗ tử thi cổ đại kia đều là xác chết của những thủ lĩnh có chức vị cao trong tộc người Bái Xà, trước khi chết họ đã bịt kín cửa động lại. Đi tiếp xuống phía dưới mới là đường hầm chính của mạch núi này, Tư Mã Khôi dự đoán con đường hầm dưới lòng núi và các hang động khác đều là những dấu vết địa chất do sự vận động dòng dung nham hàng ngàn tỉ năm về trước để lại, quy mô vô cùng to lớn, hình dạng vô cùng kì dị, đó là những kiến trúc ngoài tầm hiểu biết cùa con người, bởi thế không thể nói người Bái Xà là tác giả tạo ra đường hầm này, cùng lắm họ cũng chỉ là kẻ thừa kế mà thôi.

Vì tử khí trong đại điện không thể tản hết nên mọi người phải cắn chặt răng tiếp tục cuộc hành trình. Tư Mã Khôi thấy cơ thể Nhị Học Sinh suy nhược, đến giờ cậu ta muốn bò cũng không bò nổi, anh đành đến xốc nách cậu ta kéo đi.

Ba người còn lại cũng đi gần trợ giúp, chỉ duy Hải ngọng trước giờ luôn ác khẩu, lúc này tuy thở chẳng ra hơi, anh cũng không thể nhẫn nhịn được, bảo Tư Mã Khôi: “Trông bộ dạng thế kia thì trụ sao nổi, hay quẳng mẹ nó đi cho xong. Tớ chẳng tin thiếu quả trứng thối này, chúng ta lại không làm nổi bánh ga tô!”

Trong khi Hải ngọng cất giọng nói mấy câu hổn hển không rõ lời ấy, mọi người vẫn tiếp tục xuống sâu hơn giữa những trụ đá sụt nghiêng, cả hội đã đi đến phần đáy hố nhưng vẫn nhìn thấy có rất nhiều đoạn tường, vách thành sụp đổ, trên mặt đất vương vãi hằng hà sa số vụn đá, bụi đất tích lại dày đến vài phân, mấy cỗ cương thi của người Bái Xà rơi xuống đáy động đã biến mất không tăm tích.

Dưới đáy huyệt động có có vô số thành quách, nhà cửa, tuy đã đổ nát không còn hình dạng, nhưng phía dưới lớp đất bụi vẫn còn lờ mờ ẩn hiện hình hài của những thông đạo, cư xá, dường như chỗ nào cũng vùi chôn bí mật cổ xưa của người Bái Xà, cùng với sự trôi chảy của thời gian, chúng dần dần bước đến điểm tận cùng của số mệnh và sắp sửa bị hủy diệt ở dưới lòng đất không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời.


Tư Mã Khôi giơ đuốc soi sáng bốn phía xung quanh anh thấy không gian chỗ này khoáng đạt, không hề có vật gì cản trở tầm nhìn, vậy mà sao mấy cỗ cương thi kia vừa rơi xuống đã đột nhiên biến mất? Anh thầm linh cảm thấy sự không lành, liền lập tức lên nòng khẩu Winchester 1887.

Những thành viên còn lại cũng thắc thỏm sợ hãi, thần kinh căng như dây đàn, môi khô nứt nẻ, trong não như có vô số con côn trùng nhỏ đang nhay cắn, năm cơ quan cảm giác trở nên vô cùng chậm chạp, họ kiệt sức đến độ hồn sắp lìa khỏi xác, ngặt nỗi bình nước không còn lấy một giọt, trong tòa Tử thành lại vô cùng khô nóng, nhất thời chưa thể tìm thấy nguồn nước, nên cả hội đành phải tiến vào đường hầm mong tìm được nơi an toàn ngồi thở trong chốc lát, đợi khí huyết dần dần phục hồi mới đi tìm nguồn nước. Nhưng tình hình lại xảy ra ngoài dự liệu, khi mọi người thâm nhập đến tận tầng cuối mới phát hiện, họ vẫn chưa thoát ra khỏi Tử thành. Không hiểu nơi quỷ quái này rốt cuộc sâu bao nhiêu?

Cao Tư Dương phát hiện, trên bức tường sụp đổ bên cạnh có vật gì đó lồi lõm gồ ghề, bên trên phủ lớp bụi dày. Tới gần cô mới thấy trên vách tường đá lộ rõ bức phù điêu quỷ quái mình trần, phần lớn đều giơ nanh giương vuốt, dáng điệu quái dị, khuôn mặt hướng về một phía, những bức phù điêu này hoàn toàn khác với các bức cô đã từng thấy trước đây. Cao Tư Dương hỏi Thắng Hương Lân: “Cô xem những hình vẽ này có ý nghĩa gì?”

Thắng Hương Lân quan sát một hồi và mau chóng hiểu ra vấn đề, người Bái Xà tin rằng sau khi chết đi, ngoài một số người được chuyển thế luân hồi trong bụng thần Vũ Xà, thì số còn lại đều biến thành ma quỷ, hài cốt vụn nát, linh hồn phiêu dạt xuống cửu tuyền, cuối cùng trôi về cõi hư vô, đây mới là ý nghĩa đích thực của cái chết. Huyệt động sâu nhất trong Tử thành chính là vùng đất vùi chôn những hài cốt không thể chuyển thế siêu sinh, rất có thể đường hầm đá ở đáy dãy núi sẽ chạy xuyên từ đây đến đó, còn chỗ đặt tấm bia đá lại chính là hắc động chứa đầy hư vô.

Tư Mã Khôi thấy phương hướng suốt chuyến hành trình của cả hội không bị sai lệch thì trong lòng cũng mừng thầm, nhưng trông sắc mặt mọi người bây giờ dường như đã đến tận cùng sức chịu đựng, mắt người nào người nấy sắp bốc khói đến nơi, trong khi đó điểm cuối của đường hầm là đâu và ở đó có gì thì khó mà đoán được, nếu không bổ sung nước kịp thời, không chừng chưa đầy một ngày nữa, mọi người sẽ chết vì khát. Anh thầm nghĩ, xung quanh đây chắc cũng có vô số hài cốt của người Bái Xà, chỉ có điều hiện giờ trong tầm mắt, họ không nhìn thấy cỗ di hài nào mà thôi.

Tứ phía chỉ thấy tường thành đổ nát cùng đá vụn và bụi đất chỗ nào cũng toát lên vẻ cổ quái, không rõ trước đây nơi này từng xảy ra biến cố gì, mấy cỗ cương thi vừa rơi xuống đây thì đều biến mất một cách kỳ lạ. Nhiều khả năng những vị vương gia người Bái Xà đầu đội trang sức vàng lúc sinh thời đã ăn loại nhục chi hiếm có dưới lòng đất, nên trải qua ngàn năm, thể xác họ vẫn không mục ruỗng, móng tay và lông tóc mọc rất dài, móng tay cong vút như móng vuốt quái vật, dài tưởng chừng sắp vươn ra gãi lưng, dịch dãi rỉ ra từ miệng ngưng tụ và kết thành những khóm nấm độc khổng lồ, che phủ cả con đường tăm tối dẫn xuống đáy tòa thành cổ.

Trong môi trường đặc biệt thế này, nói không chừng mấy cỗ hài cốt kia đã xảy ra chuyện gì đặc biệt, bây giờ mọi người đã sức cùng lực kiệt, nếu dừng lại ở đây chỉ e lành ít dữ nhiều.

Ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu, đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy có giọt nước nhỏ xuống cạnh chân, như thể nước thẩm thấu từ vách đá dưới mặt đất ngấm xuống, nhưng cùng lúc ấy anh cũng ngửi thấy một luồng khí hôi thối của tử thi xộc tới. Tư Mã Khôi vội vàng giơ cao cây đuốc lên xem, thì thấy trong bóng tối thấp thoáng ẩn hiện một khuôn mặt của xác chết cổ đại người Bái Xà, nó treo ngược từ trên cao xuống, hai mắt lồi ra như mắt cá, da mặt khô như vỏ cây, dòng nước vàng hôi thối vẫn đang rỏ tong tong từ miệng xuống.



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.