Mê Tông Chi Quốc

Chương 160: cheo veo






Tuy Tư Mã Khôi chưa đạt đến bản lĩnh khinh công “én liệng tầng không, chuồn chuồn chấm nước”, nhưng cũng từng luyện qua thuật “phiến cao đầu” của giới lục lâm, cơ thể nhẹ tênh như mây khí, nên cái gì cao siêu thì không nói, chứ leo tường vượt mái chỉ là chuyện nhỏ.

Nhưng con người rốt cuộc vẫn không phải chim, lúc này anh đột nhiên thấy chân mình giẫm hụt xuống động sâu, chân không tới đất, cật không tới trời, mà muốn quay lại cũng không được. Tư Mã Khôi nghe tiếng gió vù vù không dứt, tự biết bất kể huyệt động núi Âm Sơn sâu nông thế nào, nhưng chắc chắn phải sâu hơn 20 mét, vì phạm vi đèn quặng không chiếu tới đáy, với độ sâu ấy thì cũng đủ để thịt nát xương tan, một sống chín chết, nghĩ đến đây mà lòng anh ớn lạnh.

Lúc này, hai tay Tư Mã Khôi vẫn cầm súng và đuốc, bất kể gió tạt, mưa ướt, thanh đuốc dầu cá vẫn không tắt, nó loang loáng soi những nét vằn vệt trên vách đá, hai bên vách cơ hồ có thể chạm tay vào được, nếu nhờ vào bản lĩnh “bọ cạp đảo đầu leo tường”, anh vẫn có thể bám trụ lại trên vách, ngặt nỗi khoảng cách từ chỗ anh đến vách đá còn xa tầm ba đến năm mét, mà vách lại lõm vào trong, rất khó chạm tay tới, vả lại cơ thể anh đang trong trạng thái rơi xuống với tốc độ chóng mặt, nên không thể mượn lực bay sang ngang được.

Tư Mã Khôi hiểu rõ sống hay chết được quyết định chỉ trong thời gian khoảnh khắc, nên bản năng mưu cầu sinh tồn đã khiến anh gắng hết sức nhoài người vào vách. Tư Mã Khôi thả bó đuốc xuống, bắn một phát súng vào bờ đá, lực đẩy về phía sau của loại đạn cỡ 12 khiến người Tư Mã Khôi hơi dạt sang phía đối diện, giúp phần ngực bụng được trợ lực trong không trung.

Tư Mã Khôi vứt súng, lộn một vòng hướng về phía vách đá, đầu ngón tay chạm vào những nếp nhấp nhô trên bề mặt vách và bám chặt vào đó. Môn công phu “bọ cạp đảo đầu” gia truyền của Tư Mã Khôi, muốn nói gì cũng là đệ nhất trong bốn tuyệt kỹ lục lâm. Muốn học môn công phu này, ngoài việc rèn luyện lực của khuỷu tay và gót chân ra, thì trong lúc luyện tập còn phải đóng một cái đinh trên tường, rồi ngoắc một ngón tay lên chiếc đinh đó, treo mình lơ lửng cách mặt đất mấy mét, bởi vậy thuật treo người leo trèo của anh đã thực sự là một tuyệt kỹ; có điều, tình trạng lúc này là thừa chết thiếu sống, nên khắp người anh ướt đầm mồ hôi lạnh Chưa kịp thở ra, thì đột nhiên Tư Mã Khôi thấy một vệt sáng mờ mờ trên vách đá ở ngay cạnh sườn.


Ban đầu anh còn ngỡ mình bị rơi xuống, chóng mặt quá nên nảy sinh ảo giác, nhưng dụi mắt nhìn kỹ lại, Tư Mã Khôi mới phát hiện hình như đó là tàn tích phốt pho còn sót lại trên vách động, bị vật gì đó chà sát nên bén thành một quầng lửa ma trơi. Trong vầng quang sương thấp thoáng thân hình một cô gái, chân tay mảnh và dài, nhưng không nhìn rõ mặt mũi cụ thể ra sao.

Tư Mã Khôi kinh hãi thất sắc, con yêu quái trong bích họa vu Sở quả nhiên có âm hồn. Khi xưa, nước lũ ngập mênh mông, Vũ Vương đào kênh trị thủy, vết tích vũ khư trải rộng khắp bốn cực, rồi ngài lại cho khắc hình của vạn vật li kì quái dị trên thế gian lên đỉnh đồng Đồ Sơn, cho hậu thế biết trước về những loài quái vật này, để đề phòng bị chúng hãm hại.

Hình họa trong Sơn Hải Đồ bao la vạn tượng, ngay cả các sinh vật hóa thạch sống tiền sử dưới Biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá cũng được liệt kê vào đây, vậy mà tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của “tiên nữ” đâu cả. Trong khi đó, hình thái ghi chép của bích họa thời Sở lại thần bí quái dị, chiếc hộp bên ngoài cũng có thể tượng trưng cho xác người, chẳng lẽ người Sở muốn ám chỉ nó có khả năng mượn xác dạ hành? Nội dung hư hư thực thực, không biết đâu mà lần.

Ngoài ra, vật đó còn nuốt nhiệt quang, nên hầu như không có cơ hội nhìn thấy hình hài thật sự của nó. Tư Mã Khôi sững người giây lát, âm hồn kia đang bò sát đến gần anh. Lúc này, anh có thể quan sát nó rõ hơn, càng nhìn lại càng kinh ngạc. Tư Mã Khôi thấy vật đó như một nhúm sương đen, gần như hữu hình vô chất, tứ chi bám vào vách động, mang theo quầng sáng lân tinh, luồng âm phong lạnh teo teo thổi vào tận xương tủy.

Anh bất giác run cầm cập. Nhờ luồng khí lạnh, anh mới tỉnh người, mở miệng chửi: “Con ranh con!” – rồi vội vàng giở chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, trốn vào khe đá. Chết nỗi, vách động dựng đứng khác thường, ánh sáng của đèn quặng không phát huy được nhiều công dụng trong huyệt động tối tăm, nên muốn trốn cũng không kịp.

Anh đã cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp giữ chặt lấy mình, không thể giãy giụa thoát ra nổi. Tư Mã Khôi biết, nếu chạm phải âm hồn kia, toàn thân anh sẽ cứng đơ như thanh củi khô, rồi sau đó thì đành để nó muốn làm gì thì làm. Lúc này, anh cảm thấy nó đã bám sát ngay sau lưng, lòng bất giác hoảng loạn, bàn chân trượt một cái, suýt chút rơi cả người xuống vực, nhưng sau đó anh lại thấy, chân tay vẫn có thể cử động bình thường.

Nhờ ánh lửa ma trơi trên vách động, Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, thì ra âm hồn giống như cụm khói kia đã thò cánh tay dài ngoằng tóm trúng ba lô sau lưng anh. Tư Mã Khôi mừng thầm: “Đội ơn ông bà ông vải!” rồi vội vàng tháo bỏ dây ba lô, thuận thế trèo nhanh xuống đáy động.

Lúc này, một ý nghĩ thoáng hiện qua và anh để mặc cho mình rơi tự do. Anh biết, bất kể mình gắng sức vẫy vùng thế nào, thì cũng không thể thoát khỏi sự bám đuổi của âm hồn, vì nó nuốt nhiệt quang, còn anh lại không thể nhìn thấy cơ thể của nó, nên anh hầu như không có đất chống trả, chỉ còn cách nhờ tới ánh sáng lân tinh, gắng nhìn rõ chân tướng của “tiên nữ”, thì mới biết, nó có điểm yếu hay không.

Giờ là thời khắc quyết định sinh tử, cơ hội không nắm lấy sẽ vụt mất, nên anh không thể suy nghĩ gì hơn. Tư Mã Khôi vốn là người có máu liều, sẵn sàng ăn gan hùm, uống mật gấu, thế là anh lập tức tắt đèn quặng, tuy không biết thuật “cương thi nín thở” của gã thổ tặc, nhưng anh cũng hiểu hơi thở của con người chính là sinh khí, khi thở ra trăm mạch dãn nở, khi hít vào trăm mạch co khép.

Thế là, Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, rồi nằm sát xuống đất, án binh bất động. Anh thấy vệt lân tinh bao bọc quanh nhúm khí đen bay từ trên xuống ngay cạnh mình, và quả nhiên di chuyển chậm hẳn lại. Toàn thân Tư Mã Khôi bủn rủn, anh đánh liều đưa mắt nhìn sang, thấy trước mặt có thứ vật chất trong suốt với tầng cánh chuồn mỏng mảnh, nó đậu cheo veo trên vách động.


Dưới ánh lân quang, anh có thể nhìn rõ bóng mình trong nó. Thứ vật chất trong suốt ấy có hình dạng gần giống một cái hộp, bên trong chứa một khối màu đen, khối đen đó có hình dạng như một cơ thể người, nói chính xác hơn là giống một cô gái có dáng điệu quái dị. Trên lớp ngoài trong suốt đó lại có nhiều chi, mỗi chi lại chia thành hơn chục đốt tơ gai.

Tư Mã Khôi chợt hiểu ra tất cả, thứ này có thể tạm gọi là sứa ma, hoặc sứa hộp tiên nữ. Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương có nhắc đến rất nhiều vật quái dị vừa kì lạ vừa đáng sợ, có lẽ trong đó cũng ghi chép về vật này, nhưng lúc xem bản đồ, đầu Tư Mã Khôi lại mang suy nghĩ chủ quan, anh chỉ chú ý đến những hình vẽ phía dưới Biển Âm Dụ trong Đại Thần Nông Giá, mà không để ý đến tình hình xung quanh vòng tròn ma quái.

Vả lại đỉnh đồng có niên đại rất cổ xưa, hình vẽ cổ phác, khác hẳn với cách vẽ “tiên nữ trong hộp” của bích họa Sở quốc. Hơn nữa, ghi chép trên đỉnh đồng về nó cũng rất ít, đại khái chỉ có mấy dòng: “Cổ gọi là ‘phù cự’, treo mình cheo veo, thiên biến vạn hóa, bất khả cực tận”.

Nếu chỉ nhìn mấy chữ triện cổ triều Hạ khắc trên đỉnh đồng, thì không thể hiểu nó có nghĩa gì. Qua mấy lần tiếp xúc, cuối cùng Tư Mã Khôi cũng nhận ra, phần hình người giống như cô gái chính là nội tạng của nó, bọc bên ngoài là một tầng keo trong suốt có khả năng co giãn tùy ý, quanh người nó mọc đầy xúc tu mang tơ độc, đủ làm con người cứng đơ trong thời gian nháy mắt.

Cơ thể nó không có xương sống, nhưng có thể chịu đựng được áp lực khủng khiếp của sương từ. Khi ở trong sương từ, nó có sức mạnh khủng khiếp, nhưng hễ rời khỏi sương từ, nó không thể tồn tại được lâu, chính bởi vậy, nó phải mượn cái xác của gã thổ tặc bơi theo nước đến đây.

Đầu Tư Mã Khôi liên tiếp nảy ra mấy ý tưởng, nhưng không có đối sách nào khả dĩ, vì chỉ cần chạm nhẹ một cái, anh sẽ bị gai tơ của thứ giống như ma quỷ kia trói chặt, rồi trong chớp mắt, toàn thân sẽ tê liệt, mà ngay cả con ngươi cũng không chuyển động được nữa.

Điều đó chứng tỏ độc tố của loài sinh vật này cực mạnh, trong vòng mấy giây đã kịp phát tán khắp cơ thể. Tư Mã Khôi thấy khoảng cách giữa mình và “phù cự” càng lúc càng bị rút ngắn, anh đoán chiêu nín thở không phát huy được tác dụng lâu dài, rồi cử nghĩ đến cảnh bị con quái vật có nội tạng giống như ma nữ kia từ miệng chui vào cơ thể, là anh lại dựng hết cả lông tóc, bụng bảo dạ: “Hảo hán sợ gì thiệt trước mắt, bây giờ không chuồn thì còn đợi đến bao giờ!”.

Nghĩ xong anh vội co chân bò xuống đáy động tối thui, ai ngờ con “phù cự” kia bám theo còn nhanh hơn. Tư Mã Khôi chưa kịp hạ chân xuống, thì đã thấy toàn thân lạnh ngắt, gai tơ của nó đã chạm trúng người anh. Tư Mã Khôi đoán, “con sứa hộp tiên nữ” giống như âm hồn kia, chỉ thích ứng với môi trường trong sương, còn hễ rời khỏi sương, là nó bắt buộc phải tìm thể xác có máu thịt để duy trì trạng thái sinh tồn; không những vậy, nó còn phải không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy.

Lúc này, anh ép sát vào vách động tụt người xuống, nhưng không ngờ giữa chừng lại bị gai tơ của “phù cự” quấn chặt toàn thân, và trong nháy mắt mọi ý niệm trong lòng anh đều nguội lạnh. Tư Mã Khôi rơi xuống, phần nội tạng giống như ma nữ của phù cự cũng bị rơi theo, cái màng mỏng hình chiếc hộp gần như trong suốt, bỗng xòe rộng giống chiếc ô đang giương ra, cơ thể nó trùm cả lên người anh, khiến tốc độ rơi cũng giảm bớt.

Từ lúc Tư Mã Khôi tiếp xúc với gai tơ, đến lúc cơ thể cứng đơ, ý thức mơ hồ, tất cả quá trình đó chỉ diễn ra vẻn vẹn trong có mấy giây. Chính khoảnh khắc này lòng ham sống của Tư Mã Khôi lại trỗi dậy mãnh liệt, anh thực sự không cam tâm chịu chết tại nơi đây. Nhân lúc tay trái chưa bị tê liệt, anh mò nến dưỡng khí trong ba lô, cắn đứt vòng kéo, gí thẳng vào khoang bụng tựa đám sương đen kia, nhưng cánh tay anh còn chưa kịp duỗi ra thì đã mất tri giác.


Nen dưỡng khí vốn được cả hội cất trữ, để chuẩn bị cho lúc vào hang động gặp phải tình trạng thiếu dưỡng khí trong không gian kín mít và chật chội. Nó là chiếc hộp thiếc, dưới đáy có một tầng thuốc, và chỉ cần giật vòng kéo lên là nến sẽ cháy và cung cấp một lượng dưỡng khí nhỏ.

Lúc này, tiếng “soạt” trong tay Tư Mã Khôi vang lên, nến vụt sáng. Phù cự bị nhiệt quang thu hút, nó lập tức thò cả người vào trong trùm lấy hộp nến dưỡng khí. Nào ngờ, miệng hộp dưỡng khí rất bé, khi phần ruột giống như sương đen vừa chui vào trong, thì lửa nến phút chốc bị tắt ngấm, chiếc hộp hình thành trạng thái chân không, hút chặt nội tạng của nó vào bên trong.

Loài sứa ma hay sứa hình hộp chứa tiên nữ này không có xương sống, nên thân hình có thể biến hóa to nhỏ tùy ý, thậm chí có thể thu gọn thành một nắm nhỏ đủ để chui vừa miệng người, nhưng rốt cuộc nó vẫn là vật có hình có chất, phần trên cùng của khoang ruột co bóp lại thành hình tròn, chỉ nhỏ bằng một nắm đấm, đó là phần nhạy cảm nhất của phù cự.

Lúc này, nó bị hộp thiếc hút vào trong, giãy giụa kiểu gì cũng không thoát ra được, hơn nữa cơ thể nó chỉ có một lớp màng mỏng bọc bên ngoài, nên sau một tiếng “rột”, màng bọc nội tạng của nó đã rách toạc ra, rồi trong phút chốc, dịch đen trào ra đầy khoang, và thứ chụp lên người Tư Mã Khôi lúc cùng rơi xuống đáy động bỗng dưng biến mất, nhanh như thể bốc hơi lên trời.

Huyệt động Tư Mã Khôi rơi xuống không sâu lắm, hơn nữa anh lại được sứa hình hộp chứa tiên nữ bám vào người, xòe ô làm giảm tốc độ rơi, nhưng lúc anh tiếp đất vẫn bị sây sát hết cả người, có điều, do cơ thể đang tê liệt, nên anh không cảm thấy đau. Một hồi sau, Tư Mã Khôi mới liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, thần trí mê man, tựa hồ vừa mới trải qua một lần chết, mắt anh hoa thành từng quầng xanh đỏ tím vàng, anh thấy những thành viên còn lại cũng đã xuống tới đáy động.

Tư Mã Khôi nghe mọi người kể lại đầu đuôi, mới biết sau khi anh rơi xuống động, Thắng Hương Lân sợ Tư Mã Khôi xảy ra điều bất trắc, liền vội vàng tuột xuống theo, nhưng xuống tới nơi, chỉ thấy anh nằm cứng đờ trên mặt đất, không thấy âm hồn kia đâu nữa. Hai người còn lại trúng độc tương đối nhẹ, lần lượt tỉnh lại, rồi cùng Cao Tư Dương kéo nhau cả xuống đây, đến lúc thấy Tư Mã Khôi đã qua cơn nguy kịch, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Lũ ranh con trong bích họa rốt cuộc là thứ gì hả Khôi? Cậu xử lý bọn nó gọn gàng hết rồi à?” Tư Mã Khôi cử động cánh tay còn đang tê dại, anh thấy toàn thân đau nhức tận xương, không nhịn được nghiến răng hít một hơi, đầu óc trống rỗng, anh cố sức nhớ lại tình hình xảy ra ở mấy giây cuối cùng, đoạn trả lời Hải ngọng: “Hình như tớ… nhốt nó vào trong hộp rồi thì phải!” Cao Tư Dương nói: “Khi nãy, anh nằm thẳng đơ như người chết, làm chúng tôi hết cả hồn, thế mà giờ đã có hứng tán hươu vượn rồi cơ à?” Đầu óc Tư Mã Khôi tê rần, phải một lúc sau mới khôi phục lại thần trí, anh kể sơ lược cho mọi nghe tình hình lúc bấy giờ.

Mọi người nghe xong đều ngỡ ngàng, tuy cuối cùng cũng giải thích được hiện tượng dị thường xảy ra xung quanh chiếc hộp của Sở U Vương và thần thú “tải”, nhưng giải được câu đố này lại nảy sinh càng nhiều câu đố khác phức tạp hơn, và cả hội không thể lý giải được kẻ đã sai khiến gã thổ tặc ôm cỗ di hài chạy vào trong động là ai? Nhật quỹ có thực sự tồn tại hay không? Sơn động khổng lồ như một phép màu này rốt cuộc là nơi nào? .



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.