Không Có Ngày Mai

Chương 57:




CÔNG VIÊN QUẢNG TRƯỜNG Madison cách bảy dãy nhà về phía Bắc. Tôi còn những bốn tiếng giết thời gian. Tôi dành thời gian mua sắm và ăn uống ở đại lộ Park khu Nam. Không phải vì tôi có những thứ cần mua. Không phải vì tôi rất đói. Mà bởi vì dành cho những kẻ săn đuổi những gì họ không mong đợi luôn luôn là cách tốt nhất. Người ta cho là bọn tội phạm thường cao chạy xa bay. Người ta không cho rằng chúng lởn vởn ở khu dân cư ngay đó, ra vào quán ăn hay cửa hiệu.
Mới hơn sáu giờ sáng một chút. Cửa hàng thực phẩm, siêu thị, quán ăn, tiệm cà phê đều đã mở cửa. Tôi bắt đầu ở một cửa hàng Food Emporium có lối vào ở phố 14 và lối ra ở phố 15. Tôi dành bốn mươi lăm phút ở đó. Tôi lấy một cái giỏ, lang thang giữa các lối đi vờ như đang chọn đồ. Đỡ gây chú ý hơn là chỉ đi lang thang. Đỡ gây chú ý hơn lang thang giữa các lối đi mà không mang theo giỏ. Tôi chẳng muốn một tay quản lý sẵn tính cảnh giác gọi cho bất kỳ lực lượng nào đó. Tôi tưởng tượng ra tình huống mình có một căn hộ gần đây. Tôi nhét vào căn bếp tưởng tượng đủ đồ cho cả hai ngày trời. Cà phê, tất nhiên rồi. Cộng thêm đồ trộn làm bánh kếp, trứng, thịt muối, một ổ bánh mì, bơ, một ít mứt, một gói xúc xích Ý, hơn một lạng pho mát. Khi tôi thấy chán và chiếc giỏ đã nặng, tôi bỏ nó ở một lối đi không người và chuồn ra qua cửa sau của cửa hàng.
Điểm dừng tiếp theo là một tiệm ăn cách xa bốn dãy nhà về phía Bắc. Tôi đi trên vỉa hè bên tay phải, lưng quay ra đường. Trong tiệm, tôi ăn bánh kếp và thịt muối mà ai đó đã mua và chế biến. Đúng kiểu của tôi hơn. Tôi dành thêm bốn mươi phút nữa ở đó. Rồi tôi đi nửa dãy nhà tới một quán bia Pháp. Thêm cà phê và một chiếc bánh sừng bò. Ai đó đã để lại một tờ New York Times trên chiếc ghế đối diện. Tôi đọc tờ báo từ đầu chí cuối. Không thấy nhắc tới vụ săn người trong thành phố. Không thấy nhắc tới cuộc đua vào Thượng viện của Sansom ở phần tin tức quốc nội.
Tôi chia hai giờ còn lại cho bốn hướng khác nhau. Tôi từ một siêu thị ở góc giao giữa đại lộ Park và phố 22 đi sang hiệu thuốc Duane Reade đối diện rồi tới một cửa hàng dược phẩm CVS trên góc giữa đại lộ Park và phố 23. Những bằng chứng nhìn thấy được chứng tỏ rằng đất nước này đang chi tiêu cho việc chăm sóc tóc hơn là cho thực phẩm. Rồi lúc 10 giờ kém 25 tôi ngừng mua sắm mà bước ra bầu trời buổi sáng rực nắng rồi vòng lại. Từ đầu phố 24 tôi cẩn thận quan sát đích đến, một hẻm không tên râm mát nằm giữa hai tòa nhà khổng lồ. Tôi chẳng trông thấy gì khiến mình phải lo lắng. Không chiếc xe hơi bí hiểm nào, không xe tải nào đỗ đó, không có cặp đôi hay nhóm ba người nào cố tình ăn mặc tầm thường đeo tai nghe.
Thế nên, vào đúng 10 giờ, tôi bước vào công viên quảng trường Madison.
Tôi trông thấy Theresa Lee và Jacob Mark ngồi cạnh nhau trên một ghế băng gần chỗ cho chó đi vệ sinh. Trông họ có vẻ đã được nghỉ ngơi nhưng lo lắng, căng thẳng, mỗi người theo một cách riêng. Có lẽ là mỗi người có những lý do riêng. Họ là hai trong số một trăm người ngồi trong nắng một cách yên bình. Công viên là một ô chữ nhật đầy cây cối, bãi cỏ, lối đi. Đây là một ốc đảo nhỏ, rộng bằng một dãy nhà và cao bằng ba dãy, được quây hàng rào, bao quanh bởi bốn vỉa hè tất bật người đi lại. Công viên là địa điểm tốt cho những cuộc hẹn bí mật. Hầu hết những kẻ đi săn bị thu hút bởi những mục tiêu di động. Hầu hết tin rằng đám tội phạm thường xuyên di chuyển. Ba trong số một trăm người ngồi yên trong khi thành phố xoay tít xung quanh họ thì sẽ ít gây chú ý hơn ba trong số một trăm người vội vã đi trên phố.
Không hoàn hảo, song là rủi ro có thể chấp nhận được.
Tôi kiểm tra xung quanh lần cuối cùng rồi ngồi xuống cạnh Lee. Cô đưa tôi một tờ báo. Một trong những tờ tôi đã đọc. Tờ có tít SĂN. Cô nói, “Báo nói rằng chúng ta đã bắn ba nhân viên điều tra liên bang.”
“Chúng ta đã bắn bốn người,” tôi nói. “Đừng quên tay nhân viên y tế.”
“Nhưng họ làm cho nghe như thể chúng ta đã dùng súng thật. Họ làm cho nghe có vẻ như những tay ấy đã chết vậy.”
“Họ muốn bán được báo.”
“Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
“Điều đó chúng ta biết rồi. Ta đâu cần một tay nhà báo bảo cho thì mới biết.”
Lee nói, “Docherty đã nói lại lần nữa. Anh ấy đã nhắn tin cho tôi suốt cả đêm, trong khi điện thoại tắt.”
Cô nhấc người khỏi ghế, rút trong túi sau ra một tập giấy. Ba mảnh giấy vàng của khách sạn, gập làm tư.
Tôi hỏi, “Cô đã ghi lại à?”
Lee đáp, “Đó là các tin nhắn dài. Tôi không muốn để điện thoại mở nếu như có những điều cần phải xem lại.”
“Vậy chúng ta biết được gì?”
“Đồn cảnh sát khu vực 17 đã kiểm tra các cửa ngõ giao thông. Thủ tục quy chuẩn sau khi xảy ra một vụ phạm tội lớn. Bốn người đàn ông đã rời đất Mỹ khoảng ba giờ sau thời điểm có khả năng xảy ra vụ giết người. Qua sân bay JFK. Đồn khu vực 17 gọi họ là đối tượng có khả năng là nghi phạm. Đó là chuyện có thể xảy ra.”
Tôi gật đầu.
“Đồn khu vực 17 đúng đấy,” tôi nói. “Lila Hoth đã bảo tôi như vậy.”
“Ông đã gặp cô ta sao?”
“Cô ta gọi cho tôi.”
“Bằng máy nào?”
“Bằng một chiếc điện thoại khác tôi lấy từ Leonid. Hắn và một tên tìm thấy tôi. Không được chính xác như tôi muốn, nhưng tôi đã liên hệ được ở mức hạn chế.”
“Cô ta thú nhận à?”
“Ít nhiều như thế.”
“Vậy giờ cô ta ở đâu?”
“Tôi không biết chính xác. Tôi đoán là ở nơi nào đó phía Đông đại lộ Năm, phía Nam phố 59.”
“Tại sao?”
“Cô ta dùng khách sạn Four Seasons làm bình phong. Tại sao lại phải di chuyển chứ?”
Lee nói, “Có một chiếc xe thuê bị đốt cháy ở quận Queens. Đồn khu vực 17 nghĩ rằng bốn gã kia đã dùng nó để thoát khỏi Manhattan. Rồi chúng bỏ chiếc xe và đi tàu tới sân bay.”
Tôi gật đầu lần nữa. “Lila bảo rằng chiếc xe bọn chúng sử dụng không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng vấn đề là ở đây,” Lee nói. “Bốn gã này không trở lại London, Ukraine hay Nga. Chúng được đưa thẳng tới Tajikistan.”
“Nơi đó là đâu?”
“Ông không biết hả?”
“Những địa điểm mới đó làm tôi lẫn lộn hết.”
“Tajikistan nằm sát với Afghanistan. Hai nước có chung đường biên giới. Cả với Pakistan nữa.”
“Cô có thể bay thẳng tới Pakistan.”
“Chính xác. Vì vậy hoặc những gã này từ Tajikistan tới, hoặc từ chính Afghanistan. Tajikistan là nơi ông tới để vào đất Afghanistan mà không quá lộ. Ông băng qua biên giới bằng một chiếc xe bán tải. Đường sá xấu nhưng Kabul không cách quá xa.”
“OK.”
“Và đây là một vấn đề khác. Bộ An ninh Quốc gia có một quy trình. Một dạng thuật toán do máy tính thực hiện. Họ có thể theo dõi các nhóm người thông qua các hành trình giống nhau hoặc những lượt đặt vé liên quan tới nhau. Hóa ra bốn gã đó đã từ Tajikistan nhập cảnh vào Mỹ cách đây ba tháng cùng với vài kẻ khác, trong đó có hai phụ nữ mang hộ chiếu Turkmenistan. Một người sáu mươi, người kia hai mươi sáu tuổi. Họ cùng làm thủ tục nhập cảnh và nhận là mẹ con. Và Bộ An ninh quốc gia sẵn sàng thề rằng hộ chiếu của họ là hộ chiếu thật.”
“Vậy mẹ con nhà Hoth không phải người Ukraine. Mọi điều chúng nói với chúng ta đều là giả dối.”
Chúng tôi cùng im lặng suy nghĩ về chuyện đó trong hai chục giây. Tôi lướt lại tất cả những điều Lila đã nói cho chúng tôi và xóa bỏ chúng, tùng điều từng điều một. Cứ như lôi các hồ sơ từ ngăn kéo ra, lật qua rồi ném hết vào thùng rác.
Tôi nói, “Ta đã xem hộ chiếu của họ ở khách sạn Four Seasons. Tôi trông chúng có vẻ là hộ chiếu Ukraine.”
Lee nói, “Là đồ giả. Nếu không họ đã sử dụng chúng khi nhập cảnh.”
Tôi nói, “Lila có mắt xanh.”
Lee nói, “Tôi cũng nhận thấy thế.”
“Chính xác thì Turkmenistan ở đâu?”
“Cũng sát với Afghanistan. Biên giới dài. Afghanistan bị bao bọc bởi Iran, Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan và Pakistan, xuôi chiều kim đồng hồ tính từ vùng Vịnh.”
“Nếu tất cả là là Liên bang Xô viết thì dễ hơn.”
“Trừ phi ông đã sống ở đó.”
“Turkmenistan và Afghanistan có tương đồng về sắc tộc không?”
“Có lẽ có. Tất cả những đường biên giới ấy đều hoàn toàn tùy tiện. Đều do những sự cố lịch sử. Vấn đề là sự phân chia giữa các bộ tộc. Các đường vẽ trên bản đồ không liên quan gì đến chuyện đó.”
“Cô là chuyên gia đấy à?”
“NYPD biết về khu vực này nhiều hơn cả CIA. Chúng tôi phải biết. Chúng tôi có nhiều người ở đó. Chúng tôi có thông tin tình báo tốt hơn bất kỳ ai khác.”
“Một người từ Afghanistan có thể xin được hộ chiếu của Turkmenistan không?”
“Bằng cách chuyển nơi ở hả?”
“Bằng cách nhờ giúp đỡ và lấy nó.”
“Từ một người thông cảm do cùng sắc tộc hả?”
Tôi gật đầu. “Có thể bằng cách bất hợp pháp.”
“Sao ông lại hỏi thế?”
“Một số người Afghanistan có mắt màu xanh sáng. Đặc biệt là phụ nữ. Một dòng gien lạ trong dân nơi đó.”
“Ông nghĩ mẹ con nhà Hoth từ Afghanistan tới à?”
“Họ biết nhiều kinh khủng về cuộc xung đột với Liên Xô. Hơi tô vẽ thêm, nhưng họ nói đúng gần hết các chi tiết.”
“Có thể họ đã đọc sách.”
“Không, họ có những cảm xúc thật sự. Và bầu không khí nữa. Như những chiếc áo choàng cũ chẳng hạn. Các chi tiết có vẻ như không phổ biến lắm. Đó là thông tin mà chỉ kẻ trong cuộc mới có. Trước công chúng, Hồng quân tỏ ra rằng họ được trang bị rất tốt, vì những lý do gì thì rõ ràng rồi. Nội dung tuyên truyền của chúng ta cũng nói điều tương tự về họ, vì những lý do cũng rõ như vậy. Nhưng không phải vậy. Hồng quân hồi đó đang tan rã. Tôi cảm thấy nhiều thứ trong những điều mẹ con Hoth nói nghe có vẻ như chỉ người trong cuộc mới biết mà thôi.”
“Thế thì sao?”
“Có thể Svetlana thực sự đã chiến đấu ở đó. Nhưng ở phía bên kia.”
Lee ngừng một chút. “Ông nghĩ mẹ con nhà Hoth là phụ nữ người bộ tộc sao?”
“Nếu Svetlana đã chiến đấu ở đó nhưng không phải chiến đấu cho Liên Xô thì chắc chắn họ phải là người của bộ tộc.”
Lee ngừng lần nữa. “Trong trường hợp ấy thì Svetlana đã kể toàn bộ câu chuyện từ phía bên kia. Mọi thứ được xoay ngược lại. Kể cả sự tàn bạo.”
“Đúng,” tôi đáp. “Bà ta đã không phải chịu đựng. Bà ta đã gây ra chúng.”
Chúng tôi lại im lặng, thêm hai mươi giây nữa. Tôi liên tục đảo mắt khắp công viên. Hãy quan sát, đừng chỉ nhìn, hãy lắng nghe, đừng chỉ là nghe thấy. Càng tập trung bao nhiêu, anh sẽ sống sót lâu hơn bấy nhiêu. Nhưng chẳng có gì nhảy bổ vào tôi. Chẳng có gì bất ngờ xảy ra. Người ta đến và đi, người ta dắt chó tới đi vệ sinh, một hàng người đang hình thành ở quầy bán bánh hamburger. Còn sớm nhưng giờ nào cũng là giờ ăn trưa của người nào đó. Còn tùy ở chuyện ngày bắt đầu vào thời điểm nào. Lee đang xem lại hết những gì cô đã ghi chép. Jacob Mark đang đăm đăm nhìn mặt đất, nhưng ánh mắt anh tập trung vào nơi nào đó sâu dưới mặt đất. Cuối cùng anh cúi người về trước, xoay đầu nhìn tôi. Tôi nghĩ: Tới rồi đây. Câu hỏi lớn. Cú xóc trên đường.
Anh hỏi, “Lúc Lila Hoth gọi cho anh, cô ta có nhắc tới Peter không?”
Tôi gật đầu. “Cô ta đã đón nó ở quán bar.”
“Tại sao phải mất tới bốn giờ để làm việc đó?”
“Là thủ thuật. Để cho vui vẻ điệu đàng. Vì cô ta có thể.”
“Giờ thằng bé ở đâu?”
“Cô ta nói rằng nó ở đây, trong thành phố.”
“Nó ổn không?”
“Cô ta không nói cho tôi biết.”
“Anh nghĩ nó sẽ ổn chứ?”
Tôi không trả lời.
Anh bảo, “Nói cho tôi đi, Reacher.”
Tôi đáp, “Không.”
“Không là anh không nói với tôi à?”
“Không, tôi không nghĩ là thằng bé ổn.”
“Nhưng có thể nó ổn.”
“Tôi có thể lầm đấy.”
“Cô ta đã nói gì với anh?”
“Tôi nói rằng tôi không sợ cô ta, Lila bảo rằng đó cũng là điều Peter Molina đã nói với cô ta. Tôi hỏi liệu nó ổn không, cô ta bảo là tôi nên tự đến mà tìm hiểu.”
“Thế là có thể thằng bé ổn.”
“Có thể. Nhưng tôi nghĩ anh nên thực tế.”
“Về chuyện gì? Tại sao hai người phụ nữ bộ tộc của Afghanistan muốn gây chuyện với Peter chứ?”
“Tất nhiên là để tiếp cận Susan.”
“Vì cái gì? Lầu Năm Góc có trách nhiệm giúp Afghanistan mà.”
Tôi nói, “Nếu Svetlana là một phụ nữ bộ tộc tham gia chiến đấu, bà ta là một trong các du kích quân Hồi giáo. Và khi người Nga trở về quê hương, quân du kích Hồi giáo không trở về chăn dê. Họ tiếp tục. Một số trở thành Taliban, số còn lại trở thành al-Qaeda.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.