Không Có Ngày Mai

Chương 41:




ĐIỆN THOẠI BÀN CỦA DOCHERTY ĐỔ CHUÔNG, anh ta cầm lên bắt đầu nghe lần nữa. Một người bạn ở khu vực 17, có lẽ vậy, có thêm tình tiết để chia sẻ. Tôi nhìn Lee mà bảo, “Giờ thì cô sẽ phải mở lại hồ sơ.”
Cô hỏi, “Tại sao?”
“Vì những tay này là đội người địa phương mà Lila Hoth đã thuê.”
Lee nhìn tôi nói, “Anh là ai thế? Là nhà ngoại cảm à?”
“Tôi đã gặp họ hai lần.”
“Anh đã gặp một đội nào đó hai lần. Chẳng có gì nói rằng họ là một.”
“Họ đã đưa cho tôi một trong số danh thiếp giả kia.”
“Tất cả các đội như thế đều dùng danh thiếp giả.”
“Cùng với một kiểu số điện thoại sao?”
“Các công ty làm phim và truyền hình là những nơi duy nhất dùng các số đó.”
“Họ là cựu cảnh sát. Điều đó không có nghĩa gì với cô à?”
“Tôi quan tâm tới các cảnh sát, không quan tâm tới cựu cảnh sát.”
“Họ đã nhắc tới tên Lila Hoth.”
“Không, một đội nào đó nhắc tới tên cô ta. Không có nghĩa là những kẻ đã chết đó nhắc tên cô ta.”
“Cô nghĩ đây là sự trùng hợp hả?”
“Họ có thể là đội của bất kỳ ai.”
“Như là của ai khác?”
“Bất kỳ ai trong thế giới rộng lớn này. Đây là New York. New York đầy những tay đánh thuê. Họ đi thành từng nhóm. Tất thảy họ trông giống nhau và làm những việc như nhau.”
“Họ cũng đã nhắc tên John Sansom.”
“Không, một đội nào đó nhắc tên ông ta.”
“Thực ra họ là những người đầu tiên cho tôi nghe thấy cái tên ấy.”
“Thế thì có thể họ là đội của ông ta, chứ không phải của Lila. Liệu ông ta lo lắng đủ tới mức điều người của mình lên tận khu này không?”
“Ông ta đã điều tay cầm đầu bộ sậu lên tàu. Đó chính là hành khách thứ năm.”
“Thế thì xin mời anh.”
“Cô sẽ không làm gì à?”
“Tôi sẽ thông báo cho khu vực 17, để làm thông tin cơ sở.”
“Cô sẽ không mở lại hồ sơ sao?”
“Không, chừng nào tôi chưa nghe về một vụ phạm tội nằm bên địa phận của tôi bên đại lội Park.”
Tôi nói, “Tôi sẽ tới khách sạn Four Seasons.”
Đã muộn, tôi lại ở quá xa về khu Tây nên phải đi tận tới đại lộ 6 mới tìm được một chiếc taxi. Sau đó là một chuyến đi chóng vánh tới khách sạn. Sảnh yên tĩnh. Tôi bước vào như thể tôi có quyền vào đó, rồi đi thang máy lên tầng của Lila Hoth. Đi bộ theo hành lang yên tĩnh và dừng lại bên ngoài khu phòng của cô ta.
Cửa phòng cô ta hé ra chừng hai phân.
Ngàm khóa an toàn chốt bên trong đã chìa ra ngoài còn bộ phận đóng bằng lò xo đã bập vào rầm cửa. Tôi ngừng lại một giây nữa rồi gõ cửa.
Không thấy gì.
Tôi đẩy cửa và cảm nhận được bộ cửa đẩy trở lại. Tôi dùng các ngón tay xòe ra giữ cho nó mở một góc bốn mươi lăm độ và lắng nghe.
Bên trong chẳng có tiếng động nào.
Tôi mở toang cửa bước vào. Phía trước tôi là phòng khách sáng lờ mờ. Đèn tắt nhưng rèm được kéo ra và có đủ ánh sáng từ phố bên ngoài hắt vào cho tôi thấy phòng trống không. Trống không, nghĩa là không có người. Trống không cũng có nghĩa là kiểu trả phòng và bỏ đó. Không có các túi đựng đồ mua sắm trong góc, không vật dụng cá nhân bị kéo đi một cách cẩn thận hoặc bất cẩn, không áo khoác nào vắt trên ghế, không giày bỏ trên sàn. Không có dấu hiệu nào của sự sống.
Các phòng ngủ cũng thế. Giường đã được chuẩn bị, song trên đó có những vết nhăn và hằn cỡ chiếc cặp. Các tủ quần áo rỗng không. Trong phòng tắm rải rác những khăn tắm đã dùng. Nơi đứng tắm còn khô. Tôi thoáng ngửi thấy mùi nước hoa của Lila Hoth còn vương trong không khí, nhưng tất cả chỉ có thế.
Tôi dạo hết cả ba phòng thêm một lần nữa rồi lui ra hành lang. Cánh cửa khép lại phía sau lưng. Tôi nghe tiếng lò xo của bản lề thực hiện công việc của nó rồi ngàm khóa tì vào rầm cửa, sắt cọ vào gỗ.
Tôi bước trở lại thang máy, bấm nút xuống, cửa thang mở ra ngay lập tức. Thang máy đã đợi tôi. Đó là cơ chế ban đêm. Không cần dịch chuyển thang máy một cách không cần thiết. Không phát ra tiếng động không cần thiết. Tôi trở lại sảnh và bước tới bàn tiếp tân. Có cả một tổ trực đêm. Không nhiều người bằng ban ngày, nhưng quá nhiều để thực hiện thành công trò thỏa thuận bằng năm mươi đô la. Four Seasons không phải khách sạn kiểu đó. Một người đàn ông rời mắt khỏi màn hình máy tính nhìn tôi đoạn hỏi xem có thể giúp gì cho tôi. Tôi hỏi chính xác thời gian mẹ con bà Hoth trả phòng.
“Ai kia, thưa ngài?” anh ta hỏi lại. Anh ta nói với giọng khẽ khàng, chừng mực, hợp với buổi đêm, như thể anh ta ngại sẽ làm thức giấc các vị khách xếp thành tầng phía trên đầu mình.
“Lila Hoth và Svetlana Hoth,” tôi đáp.
Vẻ mặt người đàn ông cứ như thể anh ta không hiểu tôi đang nói gì, rồi lại tập trung vào màn hình máy tính và gõ vài phím. Anh ta rê lên rê xuống và bấm thêm vài phím rồi nói, “Xin lỗi ngài, nhưng tôi không thể tìm thấy dữ liệu của bất kỳ khách nào có cái tên đó.”
Tôi đọc cho anh ta số khu phòng. Anh ta lại bấm thêm vài phím, rồi miệng anh này trễ ra vẻ ngạc nhiên, anh ta nói, “Trong cả tuần nay khu đó chưa từng được sử dụng. Nó rất đắt, khó thuê lắm.”
Tôi kiểm tra lại số khu phòng trong đầu một lần nữa, rồi nói, “Đêm qua tôi đã có mặt ở đó. Khi ấy đang có người sử dụng. Và hôm nay tôi đã gặp những người ở khu ấy, trong phòng dùng trà. Có chữ ký trên hóa đơn đấy.”
Anh chàng thử lần nữa. Anh ta tìm kiếm các hóa đơn của phòng trà được trừ vào tài khoản của khách. Anh ta xoay một nửa màn hình để tôi cũng có thể nhìn, một cử chỉ mang tính chia sẻ mà các nhân viên dùng khi cần thuyết phục ta về điều gì đó. Chúng tôi đã uống hai tách trà và một cà phê. Không có thông tin lưu lại về bất kỳ lần tính tiền nào như thế.
Rồi tôi nghe thấy vài tiếng động nhỏ phía sau lưng. Tiếng kéo chân trên thảm, tiếng không khí hít vào, tiếng quần áo di chuyển trong không khí. Và tiếng lách cách của kim loại. Tôi xoay người lại và thấy mình đang đối diện với bảy người đàn ông tạo thành hình bán nguyệt hoàn hảo. Bốn trong số đó là cảnh sát tuần tra NYPD mặc sắc phục. Ba trong số họ là các nhân viên điều tra liên bang tôi từng gặp trước đó.
Đám cảnh sát mang súng dài.
Đám nhân viên điều tra liên bang có thứ gì đó khác.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.