Anna Và Nụ Hôn Kiểu Pháp

Chương 19:




Kế hoạch của mình kia rồi!”
St.Clair nhìn theo mắt tôi hướng đến khối kiến trúc mái vòm khổng lồ. Bầu trời Paris, từ lúc nhiệt độ hạ xuống luôn đều đặn khoác tấm áo màu xám tím, đã làm nó bớt lung linh lộng lẫy đi một chút, nhưng trong mắt tôi nó vẫn không kém thu hút chút náo.
“Điện Pathéon?” cậu thận trọng hỏi.
“Mình đã đến đây ba tháng rồi mà vẫn chưa tham quan chỗ đó.” Tôi nhảy lên vỉa hè hướng đến khối kiến trúc đồ sộ kia.
St.Clair nhún vai. “Nó là một đền thờ.”
Tôi dừng bước nhìn đăm đăm, cậu phải đẩy tôi về trước để tôi không bị một chiếc xe buýt du lịch màu xanh cán qua. “Ồ, đúng rồi. Một đền thờ. Sao không nghĩ ra nhỉ?”
St.Clair liếc tôi qua khóe mắt và mỉm cười. “Đền thờ là nơi gìn giữ mộ phần của những người nổi tiếng có ảnh hưởng sâu sắc đến quốc gia.”
“Có thế thôi hả?” Tôi cảm thấy hơi thất vọng. Nó trông như thể ít nhất cũng là nơi trao vương miện cho các vị vua hay điều gì đó tương tự.
St.Clair nhướng một bên mày.
“Mình không nói lăng mộ và bia tưởng niệm thì ở đâu cũng có. Nhưng chỗ đó phải có gì khác biệt chứ?” Chúng tôi trèo lên những bậc thang và chiều cao của những cây cột thật sự làm tôi choáng ngợp. Tôi chưa bao giờ đến gần như thế này.
“Mình không biết. Mình nghĩ không có gì đâu. Dù sao nó cũng chỉ xếp loại hai.”
“Loại hai? Chắc cậu đang đùa.” Giờ đây, tôi cảm thấy bị xúc phạm. Tôi thích điện Panthéon. Không đúng, tôi YÊU điện Panthéon. “Những ai được chôn ở đó?” Tôi hỏi dồn.
“Ờ. Rousseau, Marie Curie, Louis Braille, Victor Hugo…”
“Tác giả Thằng gù và nhà thờ Đức Bà phải không?”
“Chính xác. Voltaire. Dumas. Zola.”
“Trời, cậu không thể nói những người đó không gây ấn tượng.” Tôi nhận ra những cái tên dẫu rằng tôi không biết hết công trạng của họ.
“Mình đâu có nói vậy.” St.Clair móc ví tiền và trả phí vào cổng. Tôi giành trả tiền vì đây là ý tưởng của tôi nhưng cậu không chịu. “Lễ Tạ ơn vui vẻ,” cậu nói, đưa vé cho tôi. “Hãy cùng vào xem mấy người thiên cổ nào.”
Chúng tôi được chào đón bởi vô số mái vòm, cột trụ và cửa tò vò. Mọi thứ đều to lớn và tròn trịa. Những bức bích họa vĩ đại về các thánh, chiến binh và thiên thần được tô vẽ trên mọi bức tường. Chúng tôi cứ lặng lẽ trầm trồ đi qua những phiến đá hoa cương trừ lúc St.Clair chỉ một người vĩ đại như Joan of Arc[1] hay Thánh Genevieve, vị thánh bảo hộ Paris. Cậu kể Thánh Genevieve đã cứu thành phố khỏi nạn đói kém. Tôi nghĩ bà là người thật nhưng lại ngại không dám hỏi, Mỗi khi ở bên cậu, tôi luôn mặc cảm với lượng kiến thức ít ỏi của mình.
[1] Joan of Arc (1412-1431): nữ anh hùng dân tộc Pháp, được phong thánh vào năm 1920.
Một quả cầu bằng đồng đu đưa trên điểm cao nhất của mái vòm trung tâm. Tôi không thể kiềm chế được nữa. “Cái gì thế kia?”
St.Clair nhún vai và nhìn quanh tìm được biển báo.
“Sốc quá. Mình cứ nghĩ cái gì cậu cũng biết.”
Cậu đã tìm ra một tấm bảng. “Con lắc Foucault[2]. Ồ. Chắc chắn rồi.” Cậu ngước lên ngưỡng mộ.
[2] Thí nghiệm của nhà vật lý học Jean Bernard Léon Foucault chứng tỏ Trái Đất tự quay quanh trục của nó.
Tấm bảng được viết bằng tiếng Pháp nên tôi đợi cậu giải thích, nhưng đợi mãi không nghe thấy gì. “Sao hả?”
St.Clair chỉ vào vòng tròn đo đạc nằm trên nền đất. “Nó thể hiện sự xoay tròn của Trái Đất. Thấy không? Đường đi của con lắc để lại trên mặt phẳng này thay đổi mỗi giờ. Thú vị thật đấy,” cậu vừa nói vừa ngước lên trần nhà, “Nhưng thí nghiệm này không cần hoành tráng như vầy để chứng minh quan điểm của ông ta.”
“Đúng là người Pháp!”
Cậu mỉm cười. “Đi nào, hãy xem qua khu hầm mộ.”
“Hầm mộ?” Tôi đông cứng. “Hầm mộ thật sự ấy hả?”
“Vậy chứ cậu nghĩ thi thể được chôn ở đâu?”
Tôi húng hắn ho. “Ừ. Đúng đúng. Hầm mộ. Đi thôi.”
“Nếu cậu không thấy sợ.”
“Lúc ở nghĩa trang mình đã sợ lắm hả?” St.Clair sững sờ còn tôi thì xấu hổ gần chết. Tôi không thể tin mình vừa nhắc lại chuyện ở Père-Lachaise. Đúng rồi, đánh lạc hướng. Tôi cần đánh lạc hướng! Tôi thốt ra ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu. “Đua nào!” Thế là tôi phóng đến lối vào hầm mộ gần nhất. Tiếng dậm chân huỳnh huỵch của tôi vang vọng khắp đền thờ làm toàn bộ du khách trợn trừng.
Tôi. Sẽ. Chết. Vì. Xấu. Hổ. Mất.
Nhưng, đùng một cái, St.Clair chạy vọt qua tôi. Tôi ngỡ ngàng bật cười và tăng tốc đuổi theo. Chúng tôi đang bám đuổi quyết liệt thì một nhân viên bảo vệ dữ dằn vọt ra trước mặt hai đứa. St.Clair liền đứng lại và tôi va sầm phải cậu. Cậu giữ tôi lại trong lúc anh bảo vệ mắng chúng tôi xối xả. Hai má tôi bỏ bừng, nhưng trước khi tôi bày tỏ sự hối lỗi thì St.Clair đã xuất chiêu. Anh bảo vệ nguôi ngoai và thả chúng tôi đi chỉ sau một phút ôn tồn quở trách nữa.
Lại giống lúc ở Père-Lachaise. St.Clair tỏ ra vênh váo.
“Lúc nào cậu cũng được tha bổng.”
St.Clair bật cười, không tranh cãi vì biết tôi nói đúng. Nhưng tâm trạng của cậu thay đổi ngay khoảnh khắc nhìn thấy cầu thang. Cầu thang hình xoắn ốc dẫn xuống khu hầm mộ rất dốc và hẹp. Sự cáu bẳn của tôi bị thay thế bằng nỗi lo khi tôi nhìn thấy sự khiếp đảm trong mắt cậu. Tôi đã quên chứng sợ độ cao của St.Clair.
“Cậu biết đấy… mình không thực sự muốn xem hầm mộ đâu,” tôi nói.
Cái liếc mắt của St.Clair buộc tôi im lặng. Cậu quyết tâm bám lấy bức tường đá sần sùi và chậm chạp đi xuống. Từng bước. Từng bước. Từng bước. Cầu thang tuy không dài nhưng hành trình đi xuống thật sự nghẹt thở. Sau cùng chúng tôi cũng xuống đến nơi và một nhóm du khách thiếu kiên nhẫn đi sau nôn nóng chen lên. Tôi vội xin lỗi St.Clair – thật ngớ ngẩn mới đưa cậu đến đây – nhưng cậu đã ngắt lời. “Hầm mộ này lớn hơn mình nghĩ.” Giọng cậu căng thẳng và hối hả. Cậu không nhìn tôi.
Một chiêu đánh lạc hướng. Tốt. Tôi nhận được tín hiệu của cậu rồi. “Mình vừa nghe ai đó nói rằng hầm mộ này bao quát toàn bộ phần dưới khối kiến trúc. Mình cứ tưởng tượng ra vô số quan tài chứa đầy xương cơ, nhưng nơi này cũng không quá tệ.”
“Chí ít cũng không có đầu lâu hoặc xương đùi.” Một tràng cười giả tạo.
Thực tế là hầm mộ sáng trưng. Dưới này tuy lạnh lẽo nhưng sạch sẽ, thưa thớt và trắng toát. Không giống một căn hầm. Nhưng St.Clair vẫn bồn chồn và lóng ngóng. Tôi chỉ vào một bức tượng. “Này, nhìn kìa! Có phải Voltaire không?”
Chúng tôi di dọc hành các hành lang. Tôi ngạc nhiên bởi sự trống trãi xung quanh. Có rất nhiều khoảng trống cho những ngôi mộ trong tương lai. Tham quan được một lúc, St.Clair đã thư giãn trở lại, chúng tôi bàn về những chuyện vụn vặt như bài kiểm tra Toán tuần trước và chiếc áo khoác da kỳ dị mà gần đây Steve Caver hay mặc. Đã vài tuần nay, chúng tôi không trò chuyện đàng hoàng. Cảm giác lúc này từa tựa… trước đây. Bỗng một giọng Mỹ the thé cất lên phía sau.
“Đừng đi sau thằng đó. Chúng ta sẽ mắc kẹt ở đây cả ngày đấy.”
St.Clair gồng lên.
“Đáng lẽ nó nên ở nhà nếu nó quá sợ vài ba cái cầu thang.”
Tôi định quay lại thì bị St.Clair giữ tay. “Đừng. Hắn ta không đáng để cậu làm thế.” Cậu lôi tôi đi vào hành lang bên cạnh và tôi cố gắng đọc một cái tên được khắc trên tường nhưng vì đang bốc hỏa nên tôi chỉ thấy những chấm đen. St.Clair đang căng như dây đàn. Tôi cần phải làm một điều gì đó.
Tôi nheo mắt tập trung để nhìn ra cái tên đó. “Emily Zola. Người phụ nữ thứ hai mình thấy dưới này. Bà ấy có sự tích gì khác không?”
Trước khi St.Clair kịp trả lời thì giọng nói the thé kia lại vọt ra. “Émile cơ mà.” Chúng tôi quay đầu thì thấy một gã đỏm dáng mặc áo nỉ Euro Disney. “Émile Zola là đàn ông.”
Mặt tôi nóng ran. Tôi túm lấy cánh tay St.Clair kéo đi nhưng St.Clair đã dứng đối diện với gã ta. “Émike Zola đã là đàn ông,” cậu sửa lại. “Còn mày là một thằng khốn. Sao mày không lo việc của mình và để cho cô ấy yên!”
Để cô ấy yên, yên, yên! Tiếng rống của cậu âm vang khắp hầm mộ. Gã Euro Disney bàng hoàng trước cơn bùng nổ nên vội vàng quay lại bên cô vợ đang ú ớ. Ai nấy đều nhìn trân trối, miệng há hốc. St.Clair giật tay tôi lôi đến cầu thang còn tôi lo lắng cho điều khắp xảy ra. Lượng adrenaline đã đưa cậu lên hết cầu thang xoắn ốc, nhưng ngay khi cơ thể cậu nhận ra vấn đề thì cậu đột ngột dừng lại và lảo đảo lùi về sau.
Tôi vội đỡ lưng cậu. “Mình ở đây rồi.”
St.Clair quýnh quáng bấu chặt lấy ngón tay tôi. Tôi dịu dàng dẫn cậu đi lên cho đến khi chúng tôi trở lại khu vực có mái vòm, cột trụ và cổng tò vò – khoảng không gian mở ở gian chính. St.Clair buông tôi ra và ngã sụp vào băng ghế gần nhất. Cậu gục xuống như thể sắp nôn. Tôi đợi cậu lên tiếng.
Cậu không nói gì.
Tôi ngồi xuống ghế với cậu. Băng ghế này là vật kỷ niệm Antoine de Saint-Exupéry, tác giả cuốn Hoàng tử bé[3]. Ông đã qua đời trong một tai nạn máy bay nên tôi nghĩ không còn sót lại chút gì để cho vào một ngôi mộ bên dưới. Tôi nhìn ngắm mọi người hí hoáy chụp lại những bức bích họa. Tôi dõi theo người bảo vệ đã quở trách chúng tôi ban nãy. Nhưng tôi không nhìn vào St.Clair.
[3] Tên tiếng Anh: The Little Prince, được xuất bản 1943. Tác phẩm đã được dịch sang hơn 250 ngôn ngữ và đến nay đã bán được trên 200 triệu bản khắp thế giới.
Cuối cùng cậu ngước lên. Giọng cậu điềm tĩnh. “Bọn mình đi tìm gà tây cho bữa tối nhé?”
***
Chúng tôi mất khá nhiều thời gian để tham khảo các thực đơn trước khi chọn được nơi thích hợp. Cuộc tìm kiếm trở thành một trò chơi, một màn truy lùng để chúng tôi đắm mình vào đó. Bọn tôi cần phải quên cái gã trong hầm mộ, quên rằng mình đang không được ở nhà.
Sau cùng, chúng tôi cũng tìm ra một nhà hàng có quảng cáo “Bữa tối lễ Tạ ơn kiểu Mỹ”. Hai đứa hò reo và tôi nhún nhảy giai điệu chiến thắng. Chủ nhà hàng bị kinh động trước sự hứng khởi của bọn tôi nhưng vẫn xếp chỗ như bình thường. “Tuyệt vời,” St.Clair nói khi món chính được dọn ra. Cậu nâng ly nước lóng lánh và mỉm cười.
“Chúng ta sẽ uống vì đã tìm được bữa tối gà tây đúng chuẩn ở Paris này.”
Tôi cũng mỉm cười. “Uống vì mẹ cậu.”
Nụ cười của St.Clair nhạt đi trong tích tắc nhưng trở lại ngay ở mức nhẹ nhàng hơn. “Uống vì mẹ.” Bọn tôi cụng ly.
“Ừm… cậu không cần phải nói nếu cậu không muốn, nhưng mẹ cậu thế nào rồi?” Lời lẽ cứ tuôn ra khỏi miệng tôi. “Xạ trị có làm bác mệt không? Bác ăn uống có đầy đủ không? Mình đọc được nếu không bôi thuốc mỗi đêm thì có thể bị sạm da và mình chỉ thắc mắc…” Tôi ngắc ngứ khi trông thấy biểu cảm của cậu, cứ như thể tôi đang mọc thêm cặp ngà vậy. “Mình xin lỗi. Mình tọc mạch quá, mình sẽ im…”
“Không,” St.Clair ngắt lời. “Không phải vậy đâu. Chẳng qua… cậu là người đầu tiên biết mấy cái đó. Làm sao… làm sao mà…?”
“Ồ, ừm. Mình lo lắng nên đã tìm tòi tư liệu một chút. Thế nên mình… biết thế,” tôi ấp úng kết thúc.
St.Clair im lặng trong một thoáng. “Cảm ơn nhé.”
Tôi nhìn xuống mảnh khăn ăn trên đùi. “Có gì đâu…”
“Có chứ. Cậu đã làm một việc rất ý nghĩa. Khi mình thử trò chuyện với Ellie thì cô ấy biết cái khỉ khô…” cậu im bặt như thể đã lỡ lời. “Dù sao cũng cảm ơn cậu.”
Tôi bắt gặp ánh nhìn đăm đăm của cậu. “Đừng khách sáo,” tôi nói.
Chúng tôi dành cả buổi tối để nói về bác Susan. Đến khi rời nhà hàng chúng tôi vẫn nói về bác. Rồi hai đứa tản bộ dọc sông Seine. Mặt trăng tròn vành vạnh và đèn đường sáng trưng. St.Clair tiếp tục câu chuyện đến khi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn.
Cậu ngừng lại. “Mình đã không cố ý làm thế.”
Tôi hít sâu mùi dòng sông dễ chịu và khoan khoái. “Mình mừng vì cậu đã hành động như vậy.”
Chúng tôi đang trên đường trở lại ký túc xá thì cậu cúi đầu lưỡng lự và thốt lên, “Mình xem phim đi. Mình chưa muốn về.”
St.Clair không cần đề nghị đến lần thứ hai, Chúng tôi tìm ra rạp đang chiếu phim mới, một bộ phim hài rẻ tiền của Mỹ và ở lại để xem xuất kép[4]. Tôi không nhớ lần cuối cùng mình cười sặc sụa như thế là khi nào, bên cạnh tôi, St.Clair còn cười nhiều hơn. Hai giờ sáng chúng tôi mới về đến ký túc xá. Bàn lễ tân vắng hoe còn đèn phòng Nate thì tắt ngúm.
[4] Suất chiếu hai phim liên tục với giá vé một phim.
“Mình nghĩ chúng ta là những đứa duy nhất còn ở lại đây,” cậu nói.
“Vậy không ai phiền lòng khi mình làm thế này đâu nhỉ!” Tôi nhảy lên bàn và dậm chân tới lui theo kiểu duyệt binh. St.Clair rống lên một bài hát và tôi lắc lư theo giọng cậu. Khi St.Clair hát xong tôi bèn cúi chào một cách khoa trương.
“Nhanh lên!” Cậu nói.
“Hả?” Tôi nhảy xuống. Nate ở đây ư? Anh ta có thấy không?
Nhưng khi St.Clair đã chạy đến chỗ cầu thang bộ. Cậu mở cửa và hét lên. Tiếng vang làm chúng tôi nhảy dựng, nhưng sau đó hai đứa cùng hét toáng như muốn bể phổi. Thật là sướng. St.Clair đuổi theo tôi đến thang máy và chúng tôi cùng lên sân thượng. Cậu lùi lại, cười khùng khục khi tôi cố gắng khạc nhổ vào bảng quảng cáo đồ lót. Gió thổi quá mạnh và tôi phun trượt, vì thế tôi chạy vòng xuống hai tầng theo lối thang bộ. Cầu thang ký túc xá rộng và vững chãi, St.Clair chạy ngay sau lưng tôi cách có vài bước. Bọn tôi đã xuống đến tầng của cậu.
“Ờ…” St.Clair nói. Câu chuyện kéo dài mấy tiếng của tụi tôi lần đầu tiên có dấu hiệu dừng lại.
Tôi nhìn cậu. “Ừm. Ngủ ngon nhé.”
“Mai gặp. Bữa sáng muộn ở tiệm bánh kếp nhé?”
“Nghe hay đó.”
“Trừ phi…” cậu ấp úng.
Trừ phi cái gì? St.Clair ngập ngừng. Giây phút đó trôi đi. Tôi nhìn cậu dò hỏi nhưng cậu ngoảnh mặt đi.
“Được rồi.” Thật khó kìm nén nỗi thất vọng trong giọng mình. “Sáng gặp nhé.” Tôi bước xuống và liếc lại St.Clair đang nhìn tôi chăm chăm. Tôi vẫy tay. Cậu vẫn đứng trơ như tượng. Tôi đi qua cánh cửa dẫn vào tầng mình và lắc đầu. Chẳng hiểu sao chuyện giữa tụi tôi luôn đi từ hoàn hảo đến kỳ quái. Cứ như tụi tôi không có khả năng tương tác giống người bình thường vậy. Quên nó đi, Anna.
Cửa thang máy mở ra.
Tim tôi ngừng đập.
St.Clair trông có vẻ rất căng thẳng. “Lâu lắm rồi mình không có một ngày tuyệt vời như hôm nay.” Cậu chậm chạp bước đến gần tôi. “Mình không muốn chấm dứt như vậy. Ngay lúc này, mình không muốn ở một mình.”
“Ừ.” Tôi không thở được.
Cậu đứng lại, thăm dò khuôn mặt tôi. “Mình ở lại với cậu được không? Mình không muốn cậu cảm thấy không thoải mái…”
“Không có! Ý mình là…” Đầu óc tôi quay cuồng, chẳng nghĩ được gì nữa. “Được. Được chứ, tất nhiên, được mà.”
St.Clair lặng người trong giây lát và rồi gật đầu.
Tôi lôi sợ dây chuyền khỏi cổ và tra chìa khóa vào ổ. Cậu đợi sau lưng tôi. Tay tôi run lẩy bẩy trong lúc mở cửa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.