All You Need Is Kill

Chương 4: Killer Cage (1)




Dịch giả: Maththunder
Bầu trời lại sáng.
Rita Vrataski đã chết. Sau khi tôi giết con Mimic server và dọn sạch đám lâu la, họ ném tôi vào trại giam. Họ nói đó là do sao nhãng nhiệm vụ. Do mặc kệ mệnh lệnh từ bộ chỉ huy, tôi đã đặt đồng đội mình vào tình thế nguy hiểm. Không hề đề cập tới chuyện bộ chỉ huy chả đưa ra cái mệnh lệnh chó gì. Họ đang cuống cuồng tìm người để gán trách nhiệm về cái chết của Rita, và tôi không thể trách họ vì muốn tìm một con cừu thí mạng.
Tòa án quân sự kéo dài ba ngày sau khi họ nhốt tôi lại; tôi được thả trắng án. Cuối cùng, thay vì gán trách nhiệm, họ quyết định gán cho tôi một cái huy chương.
Một vị đại tướng, người điều động đợt tập thể hình, vỗ vỗ sau lưng tôi và khen ngợi về những gì tôi đã làm. Mắt ông ta cứ đảo liên hồi khi nói tới chuyện đó. Tôi muốn hét vào mặt ông ta rằng ông cứ nhét thẳng cái huy chương này vào mông nếu như ông thấy ngứa đít, nhưng rút cục tôi cũng kìm lại được. Cái chết của Rita là trách nhiệm của tôi. Chẳng có nghĩa lý gì khi đổ lên đầu ông ấy.
Chiếc huy chương là cái Mệnh lệnh của Valkyrie, được trao cho những người lính giết nhiều hơn một trăm con Mimic trong một trận chiến. Thứ vinh dự vốn dĩ được tạo ra cho một người lính đặc biệt nào đó. Cách duy nhất để nhận được một vinh dự cao cả hơn là chết trong một trận chiến –– như Rita đã làm.
Tôi thật sự đã giết một đống tên khốn kiếp. Nhiều hơn tất cả số con mà Rita đã giết cộng lại chỉ trong một trận chiến. Tôi không nhớ rõ chuyện gì đã xảy ra sau khi tôi hủy diệt con server, nhưng hình như tôi đã tìm thấy pin năng lượng thay thế cho bộ giáp của tôi và tự mình thủ tiêu phân nửa số Mimic tấn công Chiến tuyến Flower.
Công cuộc tái kiến thiết của căn cứ đang được thúc đẩy tới tần suất cao. Một nửa số tòa nhà trong căn cứ đã bị thiêu rụi, và ngổn ngang dưới đất là một đống đổ nát vĩ đại. Doanh trại của Đại đội #17 đã sụp đổ, và cuốn tiểu thuyết kỳ bí tôi chưa kịp đọc hết đã hóa thành tro bụi.
Tôi lang thang vô định khi người ta vội vã ngược xuôi qua căn cứ.
“Chiến đấu như một tên điên sao? Đó là việc một gã anh hùng ngực gắn huy chương làm à?”
Giọng nói rất thân quen. Tôi quay đầu lại vừa kịp lúc để nhìn thấy một cú đấm bay thẳm vào mặt tôi. Chân trái của tôi tự động thay đổi vị trí. Tôi không có thời gian suy nghĩ. Tất cả những gì tôi có thể làm là quyết định ở trong đầu xem có nên tung đòn phản công hay không. Nếu tôi gạt công tắc lên, phản xạ được trui rèn qua 160 vòng lặp sẽ khởi động, khiến cơ thể tôi tự động di chuyển như một con rô bốt trong nhà máy.
Tôi có thể chuyển dời trọng tâm sang chân trái, đỡ cú đấm bằng vai và túm lấy khuỷu tay của gã tấn công tôi khi tôi bước tới bằng chân phải và thúc khuỷu tay của tôi vào hông hắn. Thế là quá đủ để giải quyết cú đấm đầu tiên của hắn. Tôi mô phỏng tình huống trong đầu và nhận ra tôi sẽ đánh gãy xương sườn của kẻ tấn công tôi trước khi tôi kịp nhận ra hắn ta là ai. Tôi quyết định đưa mặt ra đỡ đòn. Tình huống tệ nhất là tôi phải đi qua đi lại với một con mắt đen ngòm mà thôi.
Không ngờ nó đau đến thế. Lực chấn động đánh tôi ngã ngửa, mông rớt xuống đất. Ít nhất không có gì bị gãy –– tất cả đều đúng như kế hoạch. Nếu quân đội thất bại thì sau này tôi đi làm nghề trở thành bao cát thịt cho người khác cũng được đấy.
“Tao không biết mày trở thành một thiên tài từ khi nào, nhưng mày rõ là một thằng khốn tự mãn.”
“Để anh ta yên đi.”
Yonabaru đứng trước mặt tôi. Hắn ta trông cứ như muốn đấm thêm vài cú nữa, nhưng một người phụ nữ mặc áo sơ mi của lính đã bước ra ngăn hắn ta lại. Cánh tay trái của cô ấy đã được bó bột. Cô ấy chắc là bạn gái của Yonabaru. Thật mừng khi cả hai còn sống.
Có một tia sáng lóe lên trong mắt cô gái đó khác hoàn toàn so với những gì tôi từng thấy, cứ như cô ấy đang nhìn một con sư tử vừa mới sổ lồng. Đó là ánh mắt khi nhìn một thứ không phải con người.
“Nhàn nhã đi bộ cứ như chưa có chuyện gì xảy ra –– nhìn cái mặt mày khiến anh phát ói.”
“Em bảo rồi, để anh ta yên đi.”
“Fuck hắn.”
Trước khi tôi có thể đứng dậy, Yonabaru đã đi ra. Tôi từ từ đứng dậy và phủi bụi. Hàm của tôi bị thương không nặng lắm. Chẳng là gì khi so sánh với sự trống rỗng Rita để lại sâu bên trong tôi.
“Hắn ta đấm hơi bị đẹp đấy,” giọng nói từ đằng sau. Đó là Ferrell. Anh ấy trông y như mọi khi, chỉ khác là hình như có thêm một hai nếp nhăn trên trán.
“Anh thấy rồi à?”
“Xin lỗi, anh không kịp ngăn hắn lại.”
“Không sao đâu.”
“Đừng có trách hắn. Hắn đã mất rất nhiều bạn bè trong ngày hôm đó. Hắn chỉ cần chút thời gian để bình tĩnh lại.”
“Em có thấy Nijou –– phần còn lại của cậu ấy.”
“Đội của chúng ta mất mười bảy người. Người ta bảo có ba ngàn thương vong, nhưng chưa có số liệu thống kê chính thức. Chú mày có nhớ cô nàng trẻ trung xinh xắn điều hành Căn tin #2 không? Cô ta cũng không qua khỏi.”
“Ồ.”
“Không phải lỗi của chú mày, nhưng chuyện đó cũng chả quan trọng trong thời điểm như lúc này. Chú mày thấy đấy, chú mày cho cô nàng của Yonabaru một cú đá không nhẹ đâu. Đấy là so với những người khác.”
“Những người khác?”
“Những người khác.”
Thêm Ferrell vào danh sách những người tôi đi qua trong trận chiến. Ai mà biết tôi còn làm gì khác nữa. Tôi cũng không nhớ rõ lắm, nhưng rõ ràng là tôi đã biến thành một tên điên khát máu trên chiến trường. Có lẽ tôi là người đã khiến bạn gái của Yonabaru phải bó bột cánh tay. Thế nên hắn ta mới cáu bẳn như vậy. Một cú đá từ chiến giáp có lẽ là hơi quá. Chết tiệt, bạn có thể chảy máu nội tạng ấy chứ.
Tôi hy vọng Yonabaru sẽ nhớ tới nỗi sợ đó. Nó sẽ khiến hắn ta sống sót trong trận chiến tiếp theo. Hắn ta có thể sẽ không còn coi tôi là bạn nữa, nhưng với tôi hắn ta vẫn là một người bạn.
“Em xin lỗi.”
“Quên nó đi.” Ferrell rõ ràng không hề giận dữ. Nếu mà có gì khác, thì đó phải là vui mừng. “Ai dạy chú mày lái chiến giáp như vậy?”
“Anh đấy, Trung sĩ.”
“Anh nghiêm túc đấy, thằng nhãi. Nói về huấn luyện dàn trận là một chuyện, nhưng cả cái quân đội Nhật Bản này chả có ai có thể dạy chú mày chiến đấu như vậy.”
Trung sĩ Bartolome Ferrell đã trải qua nhiều trận chiến hơn bất cứ ai trong UDF. Anh ấy biết một chiến binh nghĩa là gì. Anh ấy hiểu rằng nếu tôi không đá anh ấy ra, anh ấy đã chết. Anh ấy biết rằng tay lính mới đứng trước mặt anh ấy là một chiến binh tuyệt vời hơn bất kỳ ai anh ấy có thể hy vọng để trở thành. Và anh ấy biết trong trận chiến, quân hàm duy nhất có giá trị là năng lực của bản thân.
Trung sĩ Ferrell là người chịu trách nhiệm xây dựng nền tảng những kĩ năng của tôi. Nhưng tôi không thể giải thích cho anh ấy, nên tôi không thử.
“Oh, tí thì quên mất. Có cô bé loắt choắt như chuột từ quân Hoa Kỳ muốn gặp chú mày.”
Shasta Raylle. Một Shasta Raylle tôi chỉ mới gặp lần đầu tại Nhà nghỉ trên không. Chúng tôi hiếm khi nói chuyện với nhau. Cái cô Shasta cho tôi mượn rìu chiến giờ chỉ còn là một mảnh ký ức hư ảo trong vòng lặp.
“Doanh trại tạm thời của đội #17 ở đâu? Và còn nhà chứa thì sao? Em muốn kiểm tra Chiến giáp của mình.”
“Vừa mới ra khỏi trại giam và chú mày liền muốn kiểm tra Chiến giáp? Quả nhiên là không tầm thường chút nào.”
“Chẳng có gì đặc biệt đâu.”
“Quân Hoa Kỳ đã lấy chiến giáp của chú mày đi. Nói mới nhớ, con chuột bé con ấy là người tới lấy nó.”
“Họ muốn làm gì với Chiến giáp của em?”
“Thượng cấp có kế hoạch của họ. Đừng ngạc nhiên nếu chú mày bị đưa tới Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ.”
“Thật chứ?”
“Họ cần người để thay thế vị trí của Valkyrie. Anh chắc chắn chú mày sẽ làm quen nhanh thôi.” Ferrell vỗ vào vai tôi và chúng tôi tách ra.
Tôi chạy tới doanh trại của bên quân Mỹ để tìm Shasta và Chiến giáp của tôi. Những doanh trại và con đường đều đã bị thiêu rụi nặng nề đến mức khó mà biết được từ bên nào là bên quân Nhật và từ chỗ nào là bên quân Mỹ. Kể cả những chòi gác và những gã cơ bắp đều không còn.
Tôi tìm thấy Chiến giáp của mình trong công xưởng của Shasta. Shasta cũng đang ở đó. Ai đó đã khắc dòng chữ “Killer Cage” (lồng giam sát nhân) vào giáp ngực. “Cage” –– đó là cách người Mỹ phát âm tên tôi. Tôi đoán giờ tôi cũng đã có một bí danh trong đường dây liên lạc của riêng mình. Họ không lãng phí quá nhiều thời gian. Đó là một cái tên hay dành cho một con lợn dành được tấm huy chương bằng cách giết những người bạn của hắn. Tôi phải cảm ơn tên nào nghĩ ra cái này. Mẹ kiếp cái thế giới này.
Shasta nhìn tôi khi tôi xem vết khắc. “Tôi đã cố gắng để ý quan sát, nhưng họ vẫn làm trò được. Xin lỗi.” Tôi có cảm giác cô ấy đang nói y hệt những lời Rita đã nói trước đây.
“Đừng lo. Họ bảo rằng cô đang tìm tôi à?”
“Tôi muốn đưa anh chìa khóa tới Nhà nghỉ Trên không.”
“Chìa khóa?”
“Đúng như Rita đã yêu cầu. Không ai được vào bên trong sau khi anh đi. Cũng không đơn giản khi cố ngăn người ta không vào đó trong ba ngày đâu, nhưng tôi có nhiều tài vặt mà.” Shasta đưa tôi chiếc chìa khóa. “Cứ mặc kệ mấy thứ ở cửa vào nhé.”
“Cảm ơn.”
“Giúp được anh là tốt rồi.”
“Tôi có thể nhờ cô một chuyện không?”
“Chuyện gì?”
“Cô có biết tại sao Rita lại sơn Chiến giáp thành màu đỏ không? Đó đâu phải là màu ưa thích của cô ấy. Tôi nghĩ có lẽ cô biết.”
“Cô ấy nói cô ấy muốn trở nên nổi bật. Tôi không chắc lắm khi có người lại muốn nổi bật khi ở trên chiến trường. Chỉ tổ biến mình thành mục tiêu thôi.”
“Cảm ơn. Nghe cũng hợp lý đấy.”
“Tôi đoán anh cũng muốn sơn cái của anh?” Tôi hẳn đã cau mày vì cô ấy đột nhiên nói thêm, “Xin lỗi! Tôi chỉ đùa thôi.”
“Không sao. Tôi có lẽ cần phải để ý hơn. Dù sao cũng cảm ơn vì chiếc chìa khóa. Tôi sẽ tới kiểm tra căn nhà nghỉ ngay đây.”
“Trước khi anh đi ––“
“Hử?”
“Không phải chuyện của tôi, nhưng tôi tự hỏi....”
“Chuyện gì?” Tôi hỏi.
“Anh là một người bạn cũ của Rita à?”
Tôi mím môi, vẽ nên một điệu cười méo mó.
“Xin lỗi, đáng ra tôi không nên hỏi.”
“Không, không sao. Thực ra, chúng tôi ––“
“Hử?”
“Chúng tôi chỉ vừa gặp gỡ.”
“Tất nhiên. Chúng tôi chỉ vừa mới tới căn cứ này mà. Thật là ngớ ngẩn khi hỏi vậy.”
Tôi để mặc Shasta ở đó và đi tới Nhà nghỉ Trên không. Tôi từ tốn mở cửa phòng, mặc dù tôi biết nó sẽ không làm phiền ai.
Một dải băng màu vàng in dòng chữ “BIOHAZARD” in bên trên căng chéo lối vào. Có một cái bình cứu hỏa gần chân tôi, và cặn của nó bao phủ khắp sàn nhà. Tôi đoán đây là mẹo vặt của Shasta. Căn cứ vẫn đang ngập tràn cát độc từ Mimic, và những nơi không có người sống và đang được khử trùng như Nhà nghỉ Trên không sẽ không nằm trong danh sách ưu tiên. Thông minh đấy.
Tôi bước vào bên trong. Không khí ngập mùi ẩm mốc. Mùi của Rita đã tan biến khỏi căn phòng. Không hề có thứ gì bị di chuyển khỏi nơi vốn có. Cái túi nylon đổ sụp, máy nghiền cà phê, và một chiếc bếp ga mini chỉ tổ nhấn mạnh chuyện cô ấy mới tới đây chẳng được bao lâu. Chúng là những dấu vết duy nhất chứng tỏ cô ấy đã từng ở đó. Gần như mọi thứ khác cô ấy sở hữu đều liên quan tới quân đội. Bộ pha cà phê là hành trang cá nhân duy nhất của cô ấy. Tất nhiên cô ấy không để lại cho tôi lời nhắn nào –– Full Metal Bitch làm gì có chuyện ủy mị như thế.
Cái cốc trên chiếc bàn thủy tinh vẫn giữ cốc Cà phê Rita đã pha. Tôi cầm cái cốc lên. Cà phê đen kịt và nguội ngắt. Nó đã nguội đi nhiều ngày trước rồi. Tôi lắc lắc tay, khiến mặt nước gợn sóng li ti. Đây là cách Rita đối mặt với sự cô đơn của chính mình.
Giờ tôi đã hiểu.
* * *
Em chỉ là một mảnh ghép hình trong bức tranh, và tôi là mảnh thay thế cho em. Thế giới không cần tới một người anh hùng lầm lỗi. Và giờ cái thế giới chết tiệt này lại sắp sửa đẩy anh tới chiến trường ngập máu và khói lửa. Nhưng em chưa hề ghét bỏ cái thế giới vì những gì nó đã làm với em.
Vậy nên anh sẽ không để thế giới này thua cuộc. Nó có thể khiến anh rơi vào vòng trầm luân giữa cả đàn Mimic, chẳng có gì khác ngoài chiếc Rìu Volfram Cacbua và một chiếc Chiến giáp chết mòn nhưng anh vẫn sẽ vượt qua. Anh sẽ bơi trong vũng máu ngập cả thắt lưng trong những cuộc tàn sát còn nhiều hơn tất cả những gì lính trong UDF từng thấy cộng lại, và anh vẫn sẽ không bị tổn thương. Anh sẽ huấn luyện cho tới khi anh biết rõ nano giây nào là lúc nên kéo cò, biết chính xác thời điểm để di chuyển từng bước. Anh sẽ không để mũi giáo nào gây tổn thương nghiêm trọng hơn những vết xước trên chiến giáp của anh.
Khi anh còn sống và còn thở, nhân loại sẽ không thất bại. Anh hứa với em đấy. Có thể phải mất cả thập kỉ, nhưng anh sẽ thắng trận chiến này vì em. Kể cả khi em không còn ở đây để thấy nó. Em là người duy nhất anh muốn bảo vệ, và em đã ra đi.
Những giọt nước mắt nóng hổi cứ chực trào ra khỏi mắt tôi khi tôi nhìn ô cửa kính nứt toác ra trên bầu trời, nhưng tôi sẽ không khóc. Không phải vì những người bạn tôi sẽ mất trong những trận chiến sắp tới. Là vì những người bạn tôi sẽ không thể bảo vệ được. Tôi sẽ không khóc cho tới khi trận chiến này kết thúc.
Qua ô cửa sổ tôi nhìn thấy bầu trời, xanh thẳm màu pha lê, trông như kéo dài tới vô tận. Một đám mây lờ lững trôi. Tôi cúi mặt nhìn thẳng về cửa sổ, và như một miếng bọt biển khô rang bị nhúng vào trong nước, cơ thể tôi như thu lấy bầu trời trong xanh mênh mông vào lòng.
Em ghét ở một mình, nhưng em lại tách biệt bản thân khỏi doanh trại, đi ngủ và thức giấc trong cô đơn, bởi em biết thật khó khăn khi đối mặt với những người bạn em biết rằng sẽ chết. Kẹt trong cơn ác mộng tàn nhẫn và không có hồi kết, suy nghĩ duy nhất trong em đều hướng về phía họ. Em không thể chịu nổi khi mất đi dù chỉ một người trong họ, dù họ là ai.
Màu đỏ là màu của em, là của em và chỉ của mình em. Nó nên yên nghỉ cùng với em. Anh sẽ sơn chiến giáp của mình bằng màu xanh của bầu trời, cái màu em bảo với anh là màu em yêu khi lần đầu đôi ta gặp gỡ. Tại nơi với cả triệu binh lính, anh sẽ nổi bật hơn hết thảy, một cái cột thu lôi hút lấy đòn tấn công của quân thù. Anh sẽ là mục tiêu của chúng.
***
Tôi ngồi đó một lúc, cầm lấy cốc cà phê cuối cùng cô ấy làm, pha cho người mà cô ấy cũng chẳng quen lắm. Cái mùi thoang thoảng của nó khuấy đảo trong tôi chút tâm tình bi thương và nhung nhớ khó có thể nguôi ngoai. Một chút mốc meo trắng xanh lượn lờ trên mặt cốc cà phê. Đưa chiếc cốc lên môi, tôi uống.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.